Thơ Nguyễn Bình Phương: Từ vô thức siêu thực đến hậu hiện đại
Không chỉ thành danh ở địa hạt văn xuôi với nhiều cuốn tiểu thuyết nổi tiếng, Nguyễn Bình Phương còn là một trong những gương mặt thơ Việt Nam đương đại có phong cách khá đặc biệt, với khả năng tạo dựng thế giới ngôn ngữ vừa huyền ảo vừa ám gợi khi sử dụng những liên tưởng bất ngờ, hình ảnh đa tầng nghĩa và một giọng điệu nửa mơ hồ, nửa sắc lạnh.
Thơ Nguyễn Bình Phương được vận hành như một trường cảm giác của ý niệm liên-tục-dãn-nở. Ở đó, ngôn từ với các hình ảnh vừa tự nhiên vừa lạ hóa, còn cái tôi trữ tình thì trượt đi giữa các mặt phẳng tri nhận, để lại những vệt rung động giữa nhẹ và im, giữa rỗng và chói.
Thi pháp của anh nổi bật ở các trục bố cục với cấu trúc tứ thơ đa tầng và có xu hướng “xoáy ốc”; trục liên tưởng và suy tưởng mang tính lệch pha; trường mỹ cảm giàu liên cảm; trục sự trỗi dậy của vô thức và logic giấc mơ; trục dấu ấn hậu hiện đại trong giọng điệu, cấu trúc, trò chơi ngôn ngữ với chất liệu đời thường và huyền ảo.
Thơ mở ra một “địa hạt mơ hồ” giàu năng lượng thẩm mỹ
Đọc thơ Nguyễn Bình Phương qua chùm bài: “Nhẹ”, “Ban mai”, “Buổi câu hờ hững”, “Miêu tả những ngày nắng”, “Không chạm tới cuộc đời”, “Gõ cửa những bông hoa”, “Cuộc ly khai rười rượi”, “Thợ mộc”, “Điện thoại cô đơn” cho thấy anh đã trình hiện một thi pháp mềm mại nhưng bền bỉ, mơ màng nhưng sắc trí, nơi thơ vừa là khoảng lặng để lắng nghe thế giới, vừa là thiết bị để thử nghiệm ngôn ngữ với các thủ pháp nghệ thuật mới.
Theo tôi, một trong những bài có tứ thơ vô thức nổi bật nhất là bài "Thợ mộc" của Nguyễn Bình Phương: “Ông thợ mộc đi đâu thế kia/ sửa cánh cửa hoàng hôn đang xệ/ hay làm giá trưng bày cơn mê/ bộ sưu tập những người chưa tỉnh giấc/ Ông thợ mộc đi đóng tủ nhan sắc/ cho bà mẹ đơn thân/ đóng chiếc bàn hội nghị ba bên/ ký đình chiến ngày mai và quá khứ /cùng cây bút thực hư/ ghi nhốn nháo phiếu tem thời bao cấp/ Ông thợ mộc đi đóng thuê kệ sách/ sách kinh điển chữ như đàn ong mật/ đóng quan tài cho cầu vồng mới tắt/ vì sẩy chân ngã xuống một sắc tình/ Ông ơi, này ông ơi/ có nhận bào cá tính/ nhận đóng khung kẻ nghiện bầu trời/ vecni lại những chiến trường già cỗi/ làm giường như bà Âu Cơ từng nằm/ Ông thợ mộc bước chậm qua tháng năm/ bên đường ai đó hỏi tần ngần: - Nghe nói gỗ sưa giờ bán bằng cân/ ngày xưa họ sẽ bán bằng gì?"
Bài thơ trên khởi đầu từ hình tượng “ông thợ mộc” tưởng chừng rất cụ thể và đời thường, nhưng nhanh chóng trở thành nhân vật của một thế giới siêu thực. Nguyễn Bình Phương không tả một người thợ mộc theo nghĩa đen, mà biến ông thành “thợ mộc của vũ trụ”. Ông không chỉ đóng cửa, làm tủ hay kệ sách, mà còn “sửa cánh cửa hoàng hôn đang xệ”, “đóng quan tài cho cầu vồng mới tắt”, “bào cá tính”, “làm giường như bà Âu Cơ từng nằm”. Những hình ảnh này vừa gắn với nghề mộc, vừa mở ra một không gian tưởng tượng rộng lớn, nơi nghề thủ công trở thành công cụ can thiệp vào thế giới cảm xúc, lịch sử và cả huyền thoại dân tộc.
Câu hỏi “ông thợ mộc đi đâu” mở ra danh sách nhiệm vụ phi truyền thống: “đóng tủ nhan sắc”, “ký đình chiến ngày mai và quá khứ”, “đóng quan tài cho cầu vồng”, “vecni lại những chiến trường”... Tứ ngụ ngôn về nghệ thuật khi ông thợ mộc như nhà tạo tác biểu tượng, đóng khung, bào phẳng và đánh vecni ký ức tập thể. Ngôn ngữ bài thơ giàu ẩn dụ, kết hợp các yếu tố văn hóa Việt Nam với hình ảnh phi thực. Nhịp thơ tự do, các khổ sắp xếp lỏng lẻo về thời gian, không gian nhưng thống nhất ở sợi chỉ đỏ là nhân vật “ông thợ mộc”.
Những yếu tố của thi pháp Nguyễn Bình Phương cho thấy sự chuyển trục liên tưởng trong nhiều bài thơ với sự hoán cảm trong các hình ảnh thơ để tạo chiều sâu mỹ cảm cho câu thơ... Với câu thơ “biển đã chết sau rất nhiều lo nghĩ” cho thấy thiên nhiên mang tâm lý như con người, và sự suy tưởng hiện sinh lộ ra từ chất liệu đời thường với những tiểu vật chứa vũ trụ luận. Liên tưởng của Nguyễn Bình Phương không nhằm tô điểm mà để xoay trục nhận thức, khiến vật giới và tâm giới thay chỗ với kiểu suy tưởng để triết lý bật ra từ cảm giác cụ thể.
Trường liên tưởng mang dấu ấn trò chơi ngôn ngữ hậu hiện đại
Trong trường liên tưởng khá phong phú này, bài thơ "Không chạm tới cuộc đời" của Nguyễn Bình Phương có một tứ thơ độc đáo: “Người mộng du đứng lại giữa trời/ đứng trên mọi giấc ngủ/ nắng rền trong trái cam/ người mộng du đi tìm nắng/ Ở cái chỗ trăng đánh rơi ánh sáng/ thân thể ngân lên một nốt son/ người mộng du kiếm tìm thân thể/ nó lạc trong những khoảng lặng mê hồn/ Khoảng lặng đắp chiếu hoa ven quốc lộ/ ngác ngơ như thuyền úp ven bờ/ người mộng du vượt biển bằng hơi thở/ mái chèo khua những ngón tay đa tình/ Dưới lá cờ soải rộng hơn bình minh/ kẻ cán đích một đời phải ngủ/ người mộng du không chạm tới cuộc đời/ Không mộng du mãi mãi ngước lên trời”.
Nguyễn Bình Phương là nhà thơ của những giấc mơ đổ vỡ, của hiện thực chênh vênh và của những cảm giác trôi tuột qua đời sống. Thơ anh thường không đi thẳng vào sự kiện mà đi vòng qua ấn tượng, cảm giác, những biến dạng của ký ức và vô thức. “Không chạm tới cuộc đời” là một minh chứng tiêu biểu cho phong cách này trong một bài thơ ngắn, giàu hình ảnh bất thường, dựng lên cảm giác lạc lõng giữa đời sống và chính bản thể mình.
Ngay từ nhan đề “Không chạm tới cuộc đời”, bài thơ đã đặt người đọc vào thế giới của sự không hiện diện, không thể với tới. Đó không phải là sự rời bỏ thực tại, mà là một trải nghiệm sống mà vẫn thấy như mình đứng ngoài đời sống.
Trong bài thơ, Nguyễn Bình Phương sử dụng các hình ảnh siêu thực của những vật thể quen thuộc nhưng đặt vào ngữ cảnh bất ngờ, nhằm biểu lộ thế giới nội tâm hơn là tả thực. Điều sâu xa nhất trong bài thơ là cảm giác con người bị tách khỏi chính đời sống mà mình đang sống. Cảm giác này là một đặc trưng của thơ hậu hiện đại, nơi cái tôi bị chia mảnh, hoài nghi chính sự tồn tại của mình.
Vị trí thi pháp của Nguyễn Bình Phương thường nằm ở giữa mơ và tỉnh, giữa đời thường và huyền ảo. Nhiều bài thơ của anh mở ra một hệ tọa độ thẩm mỹ với từ ngữ tự chơi và ý niệm tự lắng. Các thủ pháp trên thể hiện khá rõ trong bài thơ “Gõ cửa những bông hoa” như một tứ thơ của hỏi - đáp và nghịch lý: “Gõ ba tiếng/ thế là se sẽ mở/ một biệt thự kiêu sa phù du/ Rồi bước ra trong chiếc áo ngủ/ cùng giọng nói mạ bạc: - Em hỏi gì thế kia/ mà thân thể đua nhau vang vọng?/ - Dạ thưa, hương hoa hồng/ tại sao không có bóng?/ - Không có nó vì em gõ cửa!/ Ở những tòa biệt thự/ câu hỏi nào cũng chết bằng hoa”.
Bài thơ “Gõ cửa những bông hoa” là một lát cắt giàu chất siêu thực, mở ra một thế giới vừa mong manh vừa bí ẩn, nơi hoa không chỉ là hoa mà trở thành cánh cửa dẫn vào những ngôi “biệt thự phù du” của tâm thức. Từ hành động giản dị “gõ ba tiếng”, bài thơ lập tức chuyển sang không gian hư ảo của một biệt thự kiêu sa nhưng “phù du”, vừa gợi vẻ đẹp, vừa gợi sự mất hút.
Chính sự chuyển dịch đột ngột ấy tạo nên thi pháp đặc trưng của Nguyễn Bình Phương với ngôn ngữ như biến hình, mở ra miền tưởng tượng đậm tính mộng. Đối thoại giữa “em” và một giọng nói “mạ bạc” càng làm rõ chất huyền hoặc ấy.
Câu hỏi về “hương hoa hồng tại sao không có bóng” là một câu hỏi phi lý theo nghĩa đời thường, nhưng lại hợp lý trong không gian siêu thực khi hương vốn vô hình, nhưng câu hỏi đặt ra để thử chạm vào giới hạn của nhận thức. Câu trả lời “Không có nó vì em gõ cửa!” đem đến ý vị bất ngờ. Gõ cửa là hành động đánh thức, can thiệp, chính sự can thiệp ấy làm hương bị tách khỏi bóng, hay nói rộng hơn, khiến bản chất sự vật xáo động, không còn giữ nguyên tính thuần khiết ban đầu.
Khổ cuối “Ở những tòa biệt thự/ câu hỏi nào cũng chết bằng hoa” khép lại bằng một triết lý khi mọi truy vấn về cái đẹp đều tan biến trong chính vẻ đẹp ấy. Hoa ở đây là biểu tượng của sự im lặng, của cái đẹp vô ngôn, nơi mọi câu hỏi rồi cũng trở nên vô nghĩa. Bài thơ nhỏ mà gợi nhiều tầng ý, cho thấy thi giới Nguyễn Bình Phương luôn giàu chất mơ, chất triết và sự biến hóa tinh tế của tưởng tượng.
Ở một số bài thơ, chất siêu thực trong thơ Nguyễn Bình Phương không ồn ào mà ngấm qua việc chuyển ngôi bản ngã: “anh là núi đồi mơ màng”, “anh, con đường đi ngược” khi cái tôi dời chỗ sang phong cảnh, sang đường đi.
Thơ Nguyễn Bình Phương là chân dung của cái tôi trữ tình vừa phân thân, vừa phi trung tâm, vừa chơi vừa nghiệm. Cái tôi trong nhiều bài thơ không cố đứng giữa, nó tản mạn thành nhiều điểm nhìn: kẻ mộng du, người gọi điện, khách gõ cửa hoa, kẻ ly khai, người đi đường mùa nắng, rồi “anh là núi đồi mơ màng”...
Sự phi trung tâm hóa này là dấu ấn hậu hiện đại, nhưng không rơi vào vỡ vụn mà như một sợi khói của cảm xúc vẫn xuyên suốt. Cái tôi ấy là thử trò chơi ngôn ngữ nhưng trả lại bằng nốt trầm suy tưởng của cô đơn, chia lìa và mong manh sinh tử.
