Thơ cổ phong của Nguyễn Thành Hưởng
Thơ cổ phong là một thể thơ có từ trước thời Đường (Trung Hoa). Về sau, cổ phong trở thành tên gọi chung cho tất cả thơ không buộc phải theo niêm luật, không hạn chế số câu, số chữ. Thời trung đại, ông cha ta có một số người sáng tác theo thể cổ phong bằng chữ Hán và Nôm. Nhưng sau khi Thơ Mới ra đời thì thơ cổ phong vắng bóng dần trên thi đàn.
Hiện nay, theo chỗ chúng tôi biết, thơ cổ phong đang trên đà khôi phục. Ngoài thơ cổ phong được sáng tác bằng tiếng Việt thì bắt đầu xuất hiện một ít người sáng tác bằng chữ Hán, trong đó phải kể đến tác giả Nguyễn Thành Hưởng với tập thơ “Thị” (NXB Hội Nhà văn, 2025).

Hiếm có tập thơ nào tại Việt Nam được trình bày theo hình thức “nhất thi - nhất họa - nhất thư pháp” như “Thị”. Mỗi bài thơ đều có một bức tranh minh họa riêng được họa sĩ Nguyễn Văn Hiếu thể hiện bằng nét vẽ thủy mặc và một bản thư pháp riêng thể hiện cả nguyên tác chữ Hán và bản phiên âm Hán Việt, với nhiều phong cách thư pháp, có khi là khải thư cẩn trọng, có khi là hành thư phóng khoáng, có khi là thảo thư đầy khí lực của thầy Đại Giác, các nhà thư pháp tài danh trong và ngoài nước.
Sự kết hợp này khiến mỗi trang thơ không chỉ là thơ, mà trở thành một tác phẩm nghệ thuật thị giác toàn diện, đưa ta cảm nhận về thọ tưởng của hồn thơ, khí mạch thư pháp và cảnh giới của nét họa.
Có thể nói, đây là một thể nghiệm nghệ thuật Đông phương hiện đại lần đầu hiện diện rõ nét tại Việt Nam, đánh thức lại giá trị cổ điển nhưng không cũ, truyền thống mà vẫn sống động, khi những tác phẩm “nhất thi - nhất họa” triều Nguyễn hiện đang còn, và được làm phong phú thêm ở phần thư pháp để trở thành “nhất thi - nhất họa - nhất thư pháp”.
Đọc “Thị”, độc giả không đơn thuần thưởng thức thơ, mà như bước vào một nơi cảnh và lời hòa quyện. Ở đó, mỗi bài thơ như một bài kệ, mỗi dòng chữ là một nét gợi nhắc về vô thường, về tánh không, về sự chứng ngộ thông qua trải nghiệm nhân sinh. Trong “Sám Bồ Đề”, thi sĩ mời người đọc bước vào nội quán của thiền gia để đoạn vọng, kiến chân: “Sát Phật bất sát sanh/ Vô ngã diệc vô nhân/ Không tánh diệc không tướng/ Tri vọng tri hóa thành”.
Thiền vị trong tập thơ này không phải là triết lý áp đặt mà “tùy duyên” được thể hiện trong bài “Duyên”. Bản dịch thơ của tác giả: “Duyên đi làm sao giữ/ Duyên đến khó thể hay/ Tùy duyên mà quán chiếu/ Bậc trí chính là đây”. Đọc hai chữ “tùy duyên” trong bài thơ này, chúng tôi chợt nhớ đến triết lý “Cư trần lạc đạo thả tùy duyên” của Thiền sư Trần Nhân Tông. “Tùy duyên” ở đây có nghĩa là thuận theo sự biến đổi của hoàn cảnh.
Cũng có khi, thi sĩ dùng hình ảnh đầy xúc cảm, nhưng để nói về sự rỗng rang tối tuyệt. Từ đó, ngôn ngữ của nghệ thuật hòa quyện với ngôn ngữ của đạo, ngôn ngữ của những người đã từng bước qua đau đớn, phiền não, để tìm thấy trong mình niềm tin và sức mạnh của từ bi và trí tuệ.
Có bài lại tỏa ra hùng khí lịch sử (Vịnh tượng đài Quang Trung), có bài trầm mặc như khúc tình ca (“Thiền tảo”, “Sắc hành”), lại có bài trào phúng sâu sắc mà nhẹ nhàng như “Tiểu tâm” hay “Bán khẩu tiếu”. Mỗi câu thơ đều có âm vị của thơ Hán cổ nhưng không gượng, mà nhẹ như gió xưa, như “cổ phong” vọng lại. Có thể nói đó là dấu ấn của một kẻ sĩ có nền tảng tri thức Phật học, Nho học và thi pháp cổ đang hiếm gặp trong thơ ca đương đại.
Hẳn nhiên, viết về những nhân vật lịch sử, tác giả phải dày công tìm hiểu về những nhân vật lịch sử ấy. Trước đây, đại thi hào Nguyễn Du trong “Bắc hành tạp lục” đề cập một loạt nhân vật lịch sử Trung Hoa, như Phục Ba, Khuất Nguyên, Nhạc Phi, Giả Nghị, Lạn Tương Như, Tần Cối, Liêm Pha… với những góc nhìn, những nhận xét, đánh giá vô cùng sâu sắc. Chúng tôi bắt gặp trong bài thơ “Thiên lý mã” của Nguyễn Thành Hưởng hai nhân vật lịch sử Trung Hoa: Chu Vương và Bá Nhạc. Ngoài ra còn có bóng dáng của Khuất Nguyên (qua khúc “Ly tao”):
Ký phục diêm xa nhẫn bất ưu
Chu Vương hữu mã lợi vô cầu
Thế gian tri tuấn thời Bá Nhạc
Nhất lý ly tao vạn lý sầu

Ngựa ký kéo xe muối nặng nhọc vẫn nhẫn nhịn, chẳng ưu phiền; khi Chu Vương có được ngựa quý, chẳng còn cần đòi hỏi thêm lợi ích; thế gian mấy ai được như Bá Nhạc nhận ra tuấn mã; một khi đã xa, chỉ một dặm cách ly thì niềm sầu trong lòng đã muôn dặm trải dài không cùng tận. Bản dịch thơ của tác giả:
Kéo xe muối nặng chẳng rầu
Chu Vương nào biết mà cầu ngựa hay
Thế gian Bá Nhạc họa may
Ly tao một dặm sầu thay muôn trùng
Muốn hiểu bài thơ phải biết điển tích Thiên lý mã gắn với tên tuổi Chu Vương và Bá Nhạc. Tuy nhiên, Thiên lý mã mới là nhân vật chính. Nó để lại một bài học về nhân cách: Dù ở bất cứ cương vị nào, hoàn cảnh nào Thiên lý mã cũng không hề nao núng. Đó cũng chính là triết lý “tùy duyên” của đạo Phật. Thiên lý mã dù là ngựa quý nhưng không gặp thời, không gặp minh chủ thì kéo xe muối chẳng hề than phiền. Nhà thơ Mai Văn Hoan có thêm một bản dịch như sau:
Kéo xe muối chẳng bận lòng
Chu Vương ngay cạnh cũng không mở lời
Ngựa hay Bá Nhạc gặp thời
Chinh an một dặm, khắp trời ly tao
Về thơ vịnh cảnh, chúng tôi thực sự thích bài “Vịnh Điếu đài”. Người đẹp có thể làm cho “đổ quán, xiêu đình”, “nghiêng nước, nghiêng thành”. Nói “người đẹp từ xưa mồi cá nhử” không sai chút nào. Binh pháp “mỹ nhân kế” được vận dụng một cách khá hiệu quả mà không phải tốn một mũi tên hòn đạn nào. Bài thơ phê phán những đấng mày râu bị chết dưới tay đàn bà. Thực ra là cụ thể hóa lời khuyên của Đức Phật: Người đời cần buông bỏ tham, sân, si để giải thoát cho chính mình khỏi bể trầm luân.
Trong số những bài thơ xuân, “Tán xuân” là nổi bật. Tác giả luận bàn về cái mới, cái cũ thật là thấu tình đạt lý. Những kẻ “có mới nới cũ” rất đáng chê trách. Câu cuối “Tâm xuân thị thường xuân” là một phát hiện bất ngờ. Xuân ở trong lòng thì không bao giờ mất. Chữ “tâm xuân” (xuân lòng) khiến chúng tôi nhớ đến hai câu thơ rất hay của Xuân Diệu: “Xuân của đất trời nay mới đến/ Trong tôi xuân đến đã lâu rồi” (Nguyên đán).
Về cấu trúc, tập thơ không chỉ là tuyển chọn ngẫu nhiên, mà được sắp xếp như một lộ trình nội quán, từ nhận thức vô thường, qua quán duyên, hành thiền, khai tuệ để đến hiển bày như như. Mở đầu bằng “Khiêm Lăng cảm niệm”, thi sĩ bắt đầu từ cảm thức lịch sử và vô thường, nơi đền đài trầm mặc nhắc nhở rằng không có quyền lực nào vượt qua sự tàn phai.
Phi tần trăm lẻ sầu không tận
Nối dõi không người để đặt bia
Tiếp đến là các bài “Duyên”, “Tầm Phật nan”, “Thư phòng cảm tác”, là hành trình quán chiếu về nghiệp duyên, đời đạo, và vô thường, vô ngã. Rồi từ đó đi sâu vào pháp hành qua các bài như “Nhẫn”, “Sám Bồ Đề”, “Sắc hành”, “Thiền tảo”, khi mà cảnh đã rơi, tâm đã lặng, chỉ còn ánh sáng của trí tuệ chiếu soi, để rồi:
Vũ trụ trừng thanh quang phổ chiếu
Như như tịch chiếu tâm Di Đà
Cấu trúc ấy - từ cảm thức lịch sử đến quán chiếu nội tâm - là một lộ trình giác ngộ, mời người đọc không chỉ “đọc” thơ mà “sống” trong thơ, “hành” trong từng câu chữ như hành thiền.
Cuối cùng, không thể không nói đến nhan đề tập thơ. “Thị”, một gợi nhắc, một tiếng gọi, một khai mở, một thức tỉnh. “Thị”, trong tinh thần Phật học, gắn với “khai thị”, là lời chỉ bày từ tâm sáng, là sự hiển bày chân lý, là chánh kiến, chánh tư duy, là cái thấy đúng của “diệu giác”. Nhan đề ấy không chỉ là tên gọi, mà là tâm yếu của cả thi phẩm. Một tiếng chuông lòng cho người hữu duyên giữa cõi đời nhiều hư ảnh, vọng tưởng của danh sắc. Đây không chỉ là một tập thơ, mà là một cuộc hành hương nội tâm, một thiền hà ngôn ngữ và pháp giới thẩm mỹ đặc sắc.
“Thị” chắc hẳn sẽ làm hài lòng những ai yêu hương xưa của những “cổ phong tạp lục”, ánh tuệ bi của Pháp, và vẻ đẹp phương Đông cổ điển.
Tiến sĩ Nguyễn Thành Hưởng sinh tại Lệ Thuỷ, Quảng Bình (cũ). Anh từng nhận Bằng khen Liên hoan truyền hình toàn quốc lần thứ 34 (2014), Giải A cuộc vận động sáng tác văn học nghệ thuật kỷ niệm 420 năm hình thành tỉnh Quảng Bình (1604-2024), 75 năm ngày Quảng Bình quật khởi (15/7/1949 - 15/7/2024). Tác phẩm đã xuất bản: "Dưới chân núi Tu Di” (thơ, NXB Hội Nhà văn, 2025); "Thị” (thơ cổ phong, NXB Hội Nhà văn, 2025).