Những câu thơ chạm linh hồn của biển
Nguyễn Ngọc Phú về “hưu” nhưng không “hắt”. Hằng ngày, trên trang cá nhân, bạn bè muôn phương vẫn gặp ông. Lúc thì ông khoe vừa câu được con cá, bơi lặn tóm được tôm hùm ngoài rạn, lúc khác ông ôm rổ mực nháy, đặc sản biển... Nguyễn Ngọc Phú về già từ thư sinh thi sĩ lại hóa thành “ngư phủ”. Tôi có cảm tưởng, với Nguyễn Ngọc Phú, khi nghỉ công tác ông như về lại chính mình với giấc mơ biển mà ông lỡ hẹn.
Nguyễn Ngọc Phú sinh ra và lớn lên ở làng Kim Đôi, xã Thạch Kim (nay là xã Lộc Hà) Hà Tĩnh. Đây là làng biển nổi tiếng, đất chật, người đông, không chỉ vì câu thơ của Phạm Tiến Duật trong bài thơ “Gửi em, cô thanh niên xung phong” mà còn là nơi sinh ra nhà thơ viết về biển nhiều và ấn tượng là Nguyễn Ngọc Phú.
Bố mẹ Nguyễn Ngọc Phú là những người dân sinh ra ở biển. Cha ông là thầy thuốc bốc thuốc chữa bệnh cứu người ở làng. Mẹ ông nội trợ giúp chồng. Nhưng dường như ở quê tôi, những người sinh ra ở biển, quanh năm bám biển để sống đều là người con của biển. “Mẹ đong biển vơi đầy miệng thúng”, “Ngôi nhà mẹ lợp bằng ngấn sóng”, “Cha là mảnh vỡ của đêm dậy đi từ sớm/ Những tấm lưới mọc khói trên vai cha còn ngái ngủ”, “Cha nhóm lửa lui cui mùi cá nướng”...
Tôi đã đọc khá nhiều thơ của các nhà thơ hiện đại viết về biển, không ít thi phẩm thành công; tuy nhiên, nếu có cuộc bình chọn “nhà thơ của biển”, tôi không do dự bỏ phiếu cho Nguyễn Ngọc Phú. Biển trong thơ ông có linh hồn, có máu thịt, không vay mượn. Hay nói cách khác, Nguyễn Ngọc Phú là nhà thơ luôn muốn chinh phục “linh hồn” biển, đưa linh hồn biển vào thi ca.
Nguyễn Ngọc Phú vừa “tái xuất” với thi phẩm: “Thơ và trường ca”, NXB Nghệ An, quý 2/2025. Tập thơ vạm vỡ, dày 300 trang, gồm 25 bài thơ, 2 trường ca, 1 trích trường ca và 26 bài thơ khác viết cho thiếu nhi.
Thi phẩm này làm tôi nhớ văn hào Ylia Erenbua (Liên Xô cũ) từng luận: “Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu con phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùi cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh... Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê đã trở nên lòng yêu Tổ quốc”.
Đọc “Thơ và trường ca” của Nguyễn Ngọc Phú, ai cũng nghĩ đến tinh thần ấy, khái niệm ấy về Tổ quốc. Tình yêu biển của Nguyễn Ngọc Phú, từ cái vẩy cá đến con đường cá; từ ông già miền biển, chợ chiều đến khói sóng..., tất cả vang lên “Tổ quốc tôi ba ngàn cây số biển”, như tên một bài thơ nổi tiếng của ông. Đó là khái niệm Tổ quốc trong thơ Nguyễn Ngọc Phú.
*
Nguyễn Ngọc Phú xuất hiện từ Giải thưởng cuộc thi thơ Báo Văn nghệ năm 1985, là nhà thơ giàu nội lực, trường lực. Trường ca là lĩnh vực văn học ông thử sức và thành công. Hai mươi năm sau, Nguyễn Ngọc Phú ghi “dấu ấn” bằng Giải nhì Cuộc vận động sáng tác văn học về đề tài Giao thông vận tải với trường ca “Con đường thức”. Riêng đề tài biển, đảo ông được Giải Nhì cuộc thi thơ “Đây biển Việt Nam”.
Nguyễn Ngọc Phú cất tiếng khóc chào đời bên sóng. “Cánh võng đầu tiên ru tôi/ Là mảnh lưới cha tôi cắt ra từ tấm lưới còn dính đầy vảy cá/ Trong giấc mơ tôi không có tiếng côn trùng/ Tiếng cá quẫy khuấy vào tôi tăm sóng” (Biến tấu biển)
Với một nhà thơ như vậy, không viết về biển mới là chuyện lạ. Thơ ông thay sự xác tín bản thể và số phận của những người dân làng biển.
“Ta cất giữ linh hồn của biển/ Như cất giữ cục than hồng mẹ nướng cá đêm/ Một cục than hồng nướng một quả trứng/ Quả trứng nở ra nỗi buồn mọc tóc/ ăn lan man cỏ gấu trước thềm/ Thiếu phụ đào về sắc thuốc/ Đẻ ra trăm trứng Tiên Rồng/ Cá voi, cá bò, cá chim, cá ngứa” (Biển và tôi).
Khi tôi viết về “Thơ và trường ca” của Nguyễn Ngọc Phú, cơn bão số 10, tên quốc tế là Bualoi vừa càn quét qua các tỉnh miền Trung, trọng điểm là hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh gây thiệt hại nặng nề. Đất nước Việt Nam “ưỡn ngực” bên bờ Biển Đông, bão từ biển không đoán định được.
Tôi nhớ câu thơ “Bão sau lưng bão trước mặt rập rình”, trong bài thơ “Tổ quốc tôi ba ngàn cây số biển” của Nguyễn Ngọc Phú. Đó là câu thơ trừu tượng, câu thơ của ẩn dụ, không còn chỉ nói về hiện tượng tự nhiên, vốn không lạ.
Sau thi ảnh ấy là câu hỏi, sự nhắc nhở về những vấn đề thời đại, địa chính trị biển. Lịch sử dựng nước và giữ nước của các thế hệ người Việt Nam cũng là lịch sử xác lập chủ quyền, quyền chủ quyền đối với biển đảo. Biển đảo là không gian sinh tồn, không gian văn hóa của người Việt, Chính vì thế, hàng ngày không chỉ Bộ đội Hải quân mà cả ngư dân ngày đêm bám biển, coi “Đảo là nhà, biển cả là quê hương”.
Vì biển, rộng ra vì quê hương đất nước, biết bao thế hệ người Việt đã dong buồm ra khơi xác lập chủ quyền, chiến đấu hy sinh để giữ gìn biển đảo. Với Nguyễn Ngọc Phú, ông có “đôi mắt thơ” kết nối hôm qua, hôm nay và ngày mai vừa da diết, vừa tự hào.
“Thức dậy trong ta:/ Biển muôn đời vẫn thẳm/ Sóng muôn đời vẫn trắng/ Muối muôn đời vẫn mặn/ Máu muôn đời vẫn thắm/ Con đường mòn/ Trên biển/ Có - mòn - đâu...” (Con đường thức).
Biển là miếng ăn, hơi thở hàng ngày của người làng biển và mãi mãi là không gian sinh tồn của người Việt. Trong “Thơ và trường ca” của Nguyễn Ngọc Phú có cả một không gian nghệ thuật về thời gian, màu sắc, mùi vị của biển. Từng loài cá, vỏ sò, vỏ ốc... hiện lên gần gũi, thân thương. Hay nói cách khác, thơ ông về biển có một “bảo tàng sinh thái biển”.
“.../ Cách mép biển chưa đầy một mét/ Ta vốc từng ngụm nước ngọt/ Thẩm thấu qua ta/ Thấm không hết nỗi cô đơn của mẹ/ Chợ cá không vay mà có trả/ Cái đêm cha ta ra đi qua sa mạc của người” (Đi qua vùng biển chết). Bài thơ này, Nguyễn Ngọc Phú viết lúc sự cố biển ở Hà Tĩnh xảy ra (năm 2016). Biển đang nhắc nhở chúng ta, phải biết giữ gìn “sức khỏe” biển. Tiềm năng biển không vô tận, khai thác biển phải biết vì con cháu mai sau.
...
Tổ quốc tôi ba ngàn ngày báo bão
Bão sau lưng bão trước mặt rập rình
Dây đàn bầu mảnh mai cũng căng bằng sợi thép
Cung bổng - cung trầm luyến láy giữ niềm tin
(Tổ quốc tôi ba ngàn cây số biển).
“Tổ quốc tôi ba ngàn cây số biển” là bài thơ dài, gồm 18 khổ, 72 câu thơ, vạm vỡ như một trường ca; nhưng tôi thích nhất khổ thơ thứ 16 này. Bài thơ này, ông sáng tác đã lâu nhưng không gian biển, từ không gian tự nhiên đến không gian sinh tồn, không gian chủ quyền, không gian sức mạnh để giữ chủ quyền, quyền chủ quyền của một quốc gia biển, luôn mang tính thời sự, thời cuộc.
Hiện nay, Việt Nam đang huy động nguồn lực, thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh, nâng cao hơn nữa năng lực thực thi và bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên biển, thực hiện Luật Biển Việt Nam (năm 2012), Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; tăng cường hợp tác quốc tế về biển phù hợp với luật pháp quốc tế.
Trên nghị trường quốc tế, Việt Nam cùng với cam kết thực hiện đầy đủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC, Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) - đây là nhân tố quan trọng đảm bảo an ninh, ổn định cho khu vực. Chỉ có như thế, mới không bất ngờ “Bão sau lưng bão trước mặt rập rình”, như câu thơ của Nguyễn Ngọc Phú.
Tôi có nhiều kỷ niệm với Nguyễn Ngọc Phú, thuở cùng làm báo. Tại bữa ăn nào, ông đứng dậy sang sảng đọc thơ. Ông là nhà thơ có trí nhớ ngoài “tưởng tượng”. Những bài thơ dù dài về biển đảo ông thuộc làu, như ngự trong đầu. Đọc ngay bên sóng biển, trên hải trình của các chuyến tàu ra thăm quần đảo Trường Sa mà ông được tham gia. “Tổ quốc tôi ba ngàn cây số biển/ Vọng tiếng Sơn Ca hót với Thuyền Chài/ Người giữ đảo biển viền quanh cổ áo/ Dưới lớp sóng bạc đầu biển có chìm đâu” (Tổ quốc tôi ba ngàn cây số biển).
Nguyễn Ngọc Phú không chỉ là người đọc thơ thông thường, ông là người đọc “trình diễn thơ” với tất cả cảm xúc. Ông kéo được người nghe vào “từ trường” mỹ cảm của thơ.
“Tôi lang thang cùng vỏ ốc, tù và/ Mẹ gọi tôi về khi vạt áo cuối ngày khép lại mảnh buồn/ không nếp gấp/ Những nấm mộ san hô không còn người đến đắp/ Tôi nhặt xương gầy treo trước cửa hoàng hôn” (Ở phía cuối chân trời).
Nguyễn Ngọc Phú từng coi mình là một hạt cát làng biển, theo con sóng bạc màu vẫy gọi. “Anh đã nháp cuộc đời mình lên cát/ Ở đâu đó có một người còn thức” (Biển và tôi). Là người đam mê thơ ca, có lúc ông tự hỏi: “Máu ta nóng hay là nước mắm”. Không ngạc nhiên, trong thơ ông có tiếng sóng biển, mùi vị biển, đủ cung bậc nồng nàn.
