Mái đình cong vút nét mi
Làng Hoành Nha có một cái đình. Người làng thường gọi là đình chợ, vì đình được xây dựng cạnh chợ Hoành Nha. Đình làng thờ thành hoàng làng có tên hiệu là Đà giang tôn thần.
Đình làng nằm nép mình dưới bóng cây đề cổ thụ quanh năm lá reo như hát. Cột đình làm bằng gỗ lim đen bóng như sừng trâu, vòng tay một người lớn ôm không xuể. Vì kèo, xà gồ làm bằng gỗ mít vàng ươm như mỡ gà, ngước mắt lên trong bóng tối như nhìn thấy nắng tỏa ra từ trong thớ gỗ. Cột cái, cột quân, vì kèo, xà gồ trải qua hàng trăm năm đã lên nước thời gian bóng loáng như phết quang dầu và tuyệt nhiên không hề mối mọt.
Mái đình lợp bằng ngói mũi hài đốt rơm nên rắn đanh hóa sành, hóa sứ, đã thế lại được lót một lớp gạch màn nên dù mưa giông, bão tố cũng không hề thấm dột lấy một giọt nước. Bốn góc mái đầu đao chim phượng. Đứng từ chợ nhìn lại, mái đình cong vút như nét mi cô đào lệch. Trên nóc mái ngói nâu tạc hình lưỡng long chầu nguyệt.
Ngắm đôi rồng nhe nanh, khoe vuốt, rung râu, quặp móng trong khói, trong sương mà như nhìn thấy sự biến thiên, thăng trầm của lịch sử qua bao nhiêu triều đại. Những triều đại phong kiến đã sụp đổ mà đình làng còn trơ gan cùng tuế nguyệt. Rồng rung râu muốn bay lên tiên giới, phượng cất cánh muốn bay về thiên thai trong nét chạm trổ tài hoa của những nghệ nhân thuở trước. Những nghệ nhân hóa ra lớp người thiên cổ đã về đâu trong sáu cõi luân hồi?
Sân đình lát gạch Bát Tràng hồng tươi như cánh hoa đào. Bao nhiêu guốc mộc của quan lại, hài văn của thi nhân, chân trần, gót nẻ của những người nông dân đã in dấu thời gian trên mảnh sân này. Dấu chân chẳng làm mòn vẹt từng viên gạch. Nắng mưa chẳng làm phai mòn mỗi dấu chân. Dấu chân kiếp sau đè lên dấu chân kiếp trước. Nắng mưa đời này hằn trên nắng mưa đời nọ. Người nối người, mùa nối mùa qua bao nhiêu thế hệ, qua bao nhiêu năm tháng mà cứ thế nảy nở, sinh sôi.
Lá đề vàng óng rụng xuống mái ngói nâu trầm, rụng xuống sân gạch đỏ au, rụng xuống kiếp người làng tôi còn nhiều đau khổ cho khói hương bài thơm ngát, cho tiếng trống chèo ngọt lịm bay lên trong những đêm hội làng mùa xuân. Những người nông dân chân lấm, tay bùn đã hóa thân vào những Thị Kính - Thị Mầu, Lưu Bình - Dương Lễ, Xúy Vân - Kim Nham… trên chiếc chiếu hoa cạp điều trải giữa sân đình.
Và chính những người nông dân ấy họ khóc cười cùng với số phận các nhân vật trong tích chèo dù đã xem đi xem lại hàng trăm, hàng nghìn lần đến sắp mòn con mắt. Rồi chính những nhân vật ấy lại bước ra từ chiếu chèo để sống cuộc đời của những người nông dân hai sương, một nắng. Lá cờ ngũ sắc đang bay trong ngọn đông phong, hay đang bay trong làn điệu chèo của cô đào, anh kép.
Làn điệu Lới lơ như thắt lưng xanh. Làn điệu Cấm giá như dải yếm hồng. Những thắt lưng xanh, những dải yếm hồng vô hình mang hồn làng, vía nước của cha ông ta trao truyền lại cho thế hệ sau đã buộc đào vào kép, đã buộc em vào anh để chúng ta kết tóc, xe tơ thành chồng, thành vợ mà ăn đời, ở kiếp để tiếp tục sinh ra và nuôi lớn những làn điệu chèo. Những làn điệu chèo như bỏ bùa mê, thuốc lú người làng.
Trước sân đình có một cái giếng tròn vạnh như mắt rồng, nước trong vắt không bao giờ cạn vì mạch nước thông với sông Sò chảy ra cửa bể. Thành giếng xây bằng đá ong xứ Đoài. Cầu giếng làm bằng đá xanh Ninh Bình còn nguyên khối. Hai thứ đá ấy, người làng tôi phải cất công đến tận nơi mua và chở về. Thế đất làng tôi là thế rồng bay. Một mắt rồng là giếng đình còn một mắt kia là giếng chùa.
Người làng thả hạt sen trắng vào giếng đình và thả hạt sen hồng vào giếng chùa. Tháng năm hoa sen nở rộ từng đám mây trắng, mây hồng trên mặt giếng đình, giếng chùa. Hoa sen trắng thơm cả tiếng mõ đình, còn hoa sen hồng thơm cả tiếng chuông chùa.
Nước giếng chùa không ai dám xuống tắm, chỉ ra gánh về để pha trà sớm mai và bao sái ban thờ ngày tết ông Táo, còn nước giếng đình mà gánh về tắm rửa, nhất là đàn bà, con gái thì da trắng nõn, trắng ngần như cánh bạch liên. Các cụ dạy, đàn bà, con gái trong làng mà có muộn phiền, oan khuất điều gì thì ra giếng đình ngâm mình xuống thì nỗi buồn trong lòng sẽ được hóa giải mà tiêu tan.
Chú Phúng nhà bên thôn Chính yêu cô Cậy tôi. Hai gia đình đã ăn hỏi trầu cau trước ngày chú Phúng lên đường nhập ngũ. Đêm hôm trước, chú Phúng hẹn cô Cậy ra cầu đá bên giếng đình để nói lời tạm biệt. Chú Phúng bảo bao giờ chiến thắng thì sẽ về mổ lợn, bắc rạp để cưới hỏi cô Cậy. Cô Cậy giả vờ nghiêm mặt hỏi, có thành hoàng trong đình và mặt trăng dưới giếng làm chứng, anh có dám thề sẽ cưới em không.
Chú Phúng giơ tay chào kiểu điều lệnh quân sự rồi đáp, tôi Vũ Văn Phúng xin thề sẽ cưới cô Hoàng Thị Cậy, ngay cả khi… Cô Cậy khẽ bịt miệng chú Phúng rồi khẽ ngả đôi bím tóc vào vai người yêu. Hai người trao cho nhau nụ hôn đầu tiên trước khi chú Phúng đeo ba lô, cầm súng ra mặt trận. Thành hoàng trong đình tối quá không nhìn thấy gì và mặt trăng dưới giếng trốn dưới lá sen.
Thế mà một năm sau, gia đình chú nhận giấy báo tử chú đã hy sinh ở mặt trận phía Nam trước khi gửi cho cô Cậy hai lá thư trên giấy ố vàng còn vương mùi bom đạn. Cô Cậy hay đóng vai Thị Mầu trong những đêm hội làng mùa xuân. Từ ngày chú Phúng hy sinh, cô Cậy không nhận đóng vai chèo nào. Nón quai thao bỏ không và áo tứ thân xác pháo cũng nhạt màu. Cô Cậy bảo cô chỉ đóng cho một người xem, người ấy mất rồi thì cô diễn cho ai xem nữa.
Ba năm sau hết tang, cô Cậy lấy chú Biềng là một thầy giáo trường làng thư sinh, nho nhã. Từ đó trở đi, mỗi khi buồn, cô Cậy thường về nhà bà tôi, tôi lại nghe thấy cô Cậy hát làn điệu Tò vò. Cô như con tằm nhả tơ, những sợi tơ nức nở và ai oán. Năm sau trời hạn hán, giếng đình cạn trơ cả đáy để lộ ra những mảnh đá gan gà to bằng bàn tay, cá ngửa trắng bụng, bùn lầy bốc mùi hôi tanh nồng nặc. Người làng đành phải lấp giếng đình. Lấp luôn cả lời thề bên cầu đá và vầng trăng dưới đáy giếng. Nhưng tôi tin rằng thành hoàng trong đình làng đã nghe thấy và làm chứng cho lời thề của chú Phúng với cô Cậy.
Còn bia căm thù dưới gốc đề cổ thụ thì vẫn đứng đó, bên giếng đình xưa để thách thức thời gian và đau khổ cõi người. Ngày giải phóng, mọi người nô nức ra đình làng đông như trảy hội để đón những người con của quê hương thắng trận trở về. Hoa nở trong bàn tay và cờ bay trên mái ngói. Nhưng trong đoàn quân ấy, thiếu đi nhiều người, có cả chú Phúng, chú đã sống mãi tuổi hai mươi và trong buồng nhà bà tôi, lại thừa ra tiếng khóc nức nở của cô Cậy.
Dì Hương là con bà Miên. Bà Miên là em ruột của ông ngoại tôi. Dì Hương là cô trông trẻ ở đình làng. Làng chưa có trường mẫu giáo nên trưng dụng đình làng làm lớp học. Trông trẻ không có lương mà được tính công điểm hợp tác xã rồi cuối tháng chia thóc, chỉ khác là không phải đi làm theo kẻng treo ở cây đa đầu thôn Thượng. Dì Hương chưa ngày nào học qua trường sư phạm, nhưng dì trông trẻ con rất khéo, chẳng ai chê trách câu nào. Cái Thư con dì lên ba tuổi, dì cũng đem nó đến lớp trông luôn thể.
Buổi sáng tôi đi học ngang qua đình làng, nghe thấy tiếng trẻ con khóc đinh tai và ngửi thấy mùi nước đái khai nhức óc. Đến trưa tôi đi học về, dì Hương vẫy tôi lại và dúi vào tay tôi quả chuối hay phẩm oản là lộc thành hoàng mà dì đã để dành. Tôi đội mũ nan, đeo cặp sách đi dưới nắng trưa. Lúc ngoái lại, vẫn trông thấy dì Hương tết tóc hai bên, mặc áo phin nõn tay bồng, cổ lá sen với quần sa tanh Nam Định, xỏ đôi guốc mộc đứng ở bậc thềm.
Năm cái Thư mười tuổi, dì Hương mất vì bệnh ung thư vú quái ác. Trường mẫu giáo đã xây mới nên lớp học không còn mượn tạm đình làng. Bây giờ mỗi lần đi ngang qua đình làng, tôi vẫn nghe thấy tiếng trẻ con bi bô tập nói vọng ra từ lớp học ngày xưa. Đi một đoạn nữa rồi ngoảnh đầu lại, tôi còn cảm thấy hình như có bóng dì Hương đứng ở bậc thềm trong mù mịt khói sương.
Tôi lớn lên và đi xa còn đình làng già đi và ở lại quê nhà. Đình làng như bà tôi luôn đứng chờ bước chân tha hương của tôi trở về bản quán. Đình làng đã chứng kiến bao nhiêu vui buồn, sướng khổ của những kiếp người lam lũ, bần hàn, dù trong đời lúc nào buồn khổ cũng nhiều hơn vui sướng. Tôi luôn tin rằng, chú Phúng, dì Hương và những người chết đói, chết trận còn ở lại đình làng. Họ đã hóa thân vào dáng hình của làng quê, xứ sở. Và khi tôi rời đi, sau lưng tôi mái đình vẫn cong vút như nét mi của cô đào lệch trong đêm hội làng mùa xuân năm nào…