Chu Thị Minh Huệ - sa mộc trên cao nguyên

Thứ Sáu, 29/08/2025, 03:31

Chu Thị Minh Huệ sinh năm 1981 tại Hà Giang, tốt nghiệp Học viện Báo chí và Tuyên truyền năm 2003, hiện công tác tại Hội Văn học Nghệ thuật Tuyên Quang. Tác phẩm chính đã xuất bản: "Dốc chín khoanh" (thơ, 2006), "Bóng dẻ đẫm sương" (tập truyện ngắn, 2013), "Đường lên Hạnh Phúc" (tập truyện thiếu nhi, 2015), "Chủ đất" (tiểu thuyết, 2016), Mười hai tầng trời (tập truyện ngắn, 2018, Ngược dòng thiên di (tập truyện ngắn, 2018).

Giải thưởng: Giải B - giải Văn học nghệ thuật Tây Côn Lĩnh (Hà Giang) 2005-2010, 2010-2015; Giải A cuộc thi Truyện ngắn - Bút ký tỉnh Hà Giang năm 2009-2010; Giải Ba truyện ngắn Báo Văn nghệ 2011-2012; giải B của Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số năm 2017...

z6928261512505_45b0fb999ad37152b48d065c885b0baa.jpg -0
Tác giả Chu Thị Minh Huệ.

Biết Chu Thị Minh Huệ đã lâu, song tôi chưa bao giờ có một giao tiếp nào với chị. Nếu chỉ nhìn qua Facebook, sẽ chỉ thấy Huệ là người giới thiệu và bán đặc sản Hà Giang: chè shan tuyết, mật ong bạc hà, củ cải muối, tam thất, hà thủ ô, măng khô… như bao người đàn bà trong cuộc mưu sinh.

Sau này tôi mới biết, giới thiệu sản vật Hà Giang, Huệ không chỉ "sống vì" nó, mà còn "sống cùng" với nó. Huệ có nhiều con nuôi là các trẻ em vùng cao mồ côi hoặc gia đình khó khăn mà chị biết qua bè bạn. Để rồi, kèm theo đó là những lần hỗ trợ, xin đồ, giúp đỡ, những chuyến đi tặng quà cho các cháu. Cũng mãi sau này, khi đọc truyện ngắn của Huệ, tôi thầm hiểu ra, tình yêu quê hương xứ sở thẳm sâu trong từng trang viết của chị bắt nguồn từ trái tim một người đàn bà như thế…

Đọc truyện ngắn Chu Thị Minh Huệ, dễ nhận thấy một sinh quyển núi đặc thù: cảnh quan, đồ vật, sinh hoạt, lời ăn tiếng nói, suy tư, phong tục, tập quán, con người miền núi. Nhưng nói Chu Thị Minh Huệ viết truyện miền núi là chưa đủ chính xác, bởi viết miền núi, chị dường như chỉ tập trung vào Hà Giang. Có thể nói, Chu Thị Minh Huệ có ý thức rất cao trong việc đào xới những tầng vỉa văn hóa, con người vùng cao Hà Giang và làm sống dậy chúng bằng những thế giới nghệ thuật văn chương của riêng mình.

Viết Hà Giang, Chu Thị Minh Huệ không kể lể phong tục, mà biến nó thành câu chuyện tự nhiên, gắn với mỗi phận người: chuyện làm mối, cưới xin, tục nối dây, mua con, yểm đảo, bùa chài, nghi lễ cúng cáo, tang ma (nhổ răng người chết, hỏa thiêu, biểu tượng tầng củi)...

Đọc Chu Thị Minh Huệ, có cảm giác luôn có một người Mông rất già nhập hồn vào nhà văn để kể chuyện. Thế là, nhờ "bà Mông già" hộ mệnh ấy, khác với phần lớn các cây viết trẻ về miền núi, Chu Thị Minh Huệ có một cuộc "mở biên" đi rất xa. Chuyện kháng chiến, cách mạng, vận động, tuyên truyền, chuyện cái đói, miếng ăn, hủ tục, tập tục, chuyện tranh giành quyền lực, chuyện tình yêu, thân phận. Có chuyện xa xăm, mơ hồ như chuyện cổ, có chuyện mang dấu ấn lịch sử, huyền tích, có chuyện mang nỗi nhức nhối của đời sống hôm nay...

Viết về người thiểu số, Chu Thị Minh Huệ chăm chú vào thân phận đàn bà. Dễ nhận ra, người đàn bà trong truyện ngắn Chu Thị Minh Huệ ai cũng khổ nhục trăm đường: vì yêu, vì tiền bạc, quyền lực, vì chồng con, vì không con, vì nhận thức hạn chế, vì hủ tục, trở thành vật trao đổi, thế thân, bị giằng xé giữa tình yêu, trách nhiệm và lòng thù hận…

Đa phần trong số họ lầm lụi sống một cuộc đời vô nghĩa. Dấu ấn thân phận thể hiện ngay trong nhan đề truyện của Chu Thị Minh Huệ ("Thìa gỗ nhà đám", "Những đứa gái", "Thân mồ côi", "Kiếp đào phai", "Sẹ hoang", "Sâu lắm lòng người", "Đường làm người", "Người tạo nghiệp"…), nhưng thể hiện rõ hơn qua kiểu nhân vật trung tâm.

Nhân vật của Chu Thị Minh Huệ không mạnh mẽ, lớn lao, kể cả trong những truyện lịch sử. Phần lớn trong số họ, sống cuộc đời mình chẳng xong. Điều này cũng có nghĩa, chị không xây dựng kiểu nhân vật sử thi hay bi tráng, mà là những con người đời thường bé nhỏ, với những toan tính, khổ đau rất đời thường.

Có thể nói, mỗi truyện ngắn của Chu Thị Minh Huệ (trừ một hai truyện mang màu sắc "tuyên huấn", kiểu "Hoa nở trên Vần Chải") đều là những câu chuyện sắc cạnh về miền núi. Nhưng Chu Thị Minh Huệ không viết theo lối cảm thương thuần túy, mà thiết tạo thế giới nhân vật đa chiều. Con người trong truyện ngắn của chị có yêu, ghét, có thương cảm, nhẫn tâm, độc địa, nham hiểm, nhưng đa phần giàu lòng trắc ẩn, mộc mạc, tự nhiên (Và trong "Những đứa gái", Diu, Sa trong "Sẹ hoang"…), đôi khi là những hạn chế về nhận thức (Súa trong "Bên này bên kia", Cáng La trong "Trên triền dốc", Xía trong "Thân mồ côi"...).

Truyện ngắn Chu Thị Minh Huệ cũng gián tiếp đặt ra những câu hỏi nhức nhối về cuộc sống, con người vùng cao hôm nay (xu hướng Kinh hóa mọi nhẽ trong lối sống, sự băng hoại về đạo đức), về trò chơi nhân quả quái ác của con người ("Mười hai tầng trời", "Xe máy đỏ", "Đường làm người", "Trên triền dốc", "Sâu lắm lòng người"...). Nói truyện ngắn Chu Thị Minh Huệ mang xu hướng luận đề, là như thế.

Có cảm giác, mỗi truyện ngắn của Chu Thị Minh Huệ đều có tham vọng tiểu thuyết, và do thế, nó luôn được mở ra vạm vỡ. "Chủ đất" là một điển hình. Không gian truyện trong đây bao quát một giai đoạn lịch sử u uẩn, bi tráng của vùng Mông. Nhưng "Chủ đất" không phải truyện chiến tranh, mà là chuyện lòng người với đủ thứ phức tạp, bề bộn xoay quanh tổng giáp Vàng Chá Pó và những đứa con, về những cuộc tranh chấp, chuyện hút xách, cưỡng hiếp, những thủ đoạn tàn độc. Không phải ngẫu nhiên, về sau, Chu Thị Minh Huệ đã viết lại "Chủ đất" thành một tiểu thuyết và đoạt giải thưởng Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2017.

z6928261514081_0d5e297cd94003b3d0f1d8967baf5807.jpg -1
Trang bìa một tác phẩm của Chu Thị Minh Huệ.

Đọc Chu Thị Minh Huệ, thấy chị luôn kể chuyện từ bên trong. Nhân vật thế nào, không phải do nhà văn nói hộ, mà tự nó nói lên. Không phải ngẫu nhiên, truyện ngắn Chu Thị Minh Huệ thường xuyên xuất hiện lối kể chuyện nội tâm. Chị không bao giờ nói nhân vật đang buồn, mà để nỗi buồn ấy hiện ra trong dòng tâm tư của bản thân nhân vật.

Cũng không phải ngẫu nhiên, Chu Thị Minh Huệ thường sử dụng kiểu lời nửa trực tiếp, mà ở đó ngôn ngữ người kể chuyện luôn hòa quyện, đan cài vào ngôn ngữ nhân vật (người thiểu số) một cách tự nhiên: "Ôi dà, bố mẹ chưa già đã cũ quá rồi. Bây giờ quần áo hay váy mặc cũng như nhau cả thôi. Mỗi lúc mỗi khác chứ. Cứ nghĩ ngày xưa thì có no bụng hay đẹp người đâu" (Xe máy đỏ)...

Chu Thị Minh Huệ dường như thuộc nằm lòng tâm tư nhân vật, cho nên chị có thể dịch chuyển điểm nhìn tâm tư từ nhân vật này sang nhân vật khác, từ nam sang nữ một cách dễ dàng. Huệ là người đàn bà Mông kể chuyện, chứ không phải một nhà văn sắm vai hiểu biết hay thông thạo kỹ thuật. Cũng phải tự tin đến mức nào đó mà trong khá nhiều truyện, chị sẵn sàng sắm vai nhân vật, trần thuật từ ngôi thứ nhất (xưng "tôi", "mình", "ta"), trực tiếp bộc lộ tâm can, suy tưởng, tự trôi trên dòng tâm cảm và số phận mình ("Thìa gỗ nhà đám", "Nối dây", "Đứa mồ côi").

Như đã nói, truyện ngắn Chu Thị Minh Huệ thường mở biên rất rộng. Điều này có lợi trong bao quát nhân tâm thế sự, nhưng có cái khó khi gói truyện. Có lẽ cũng bởi điều này, truyện ngắn Chu Thị Minh Huệ thường gây cảm giác hụt hẫng do những chuyển cảnh hoặc kết thúc đột ngột. Thứ hai là tên truyện của chị hơi lộ tính luận đề, khiến tư tưởng truyện ít nhiều dễ đoán. Chu Thị Minh Huệ có thế mạnh trong kiểu truyện dụ ngôn, song điều này đôi khi tạo cảm giác về kiểu truyện luân lí. Thứ ba, viết truyện vùng cao, Chu Thị Minh Huệ ít miêu tả thiên nhiên, phong cảnh. Điều này ít nhiều làm giảm "chất thơ" và sự lưu giữ cảnh sắc vùng cao, cái vốn làm nên tên tuổi của rất nhiều cây bút.

Nói truyện ngắn Chu Thị Minh Huệ giàu sự kiện là đúng, nhưng chưa đủ. Tôi rất thích những đoạn điểm xuyết tâm tư hay ngoại cảnh, bởi điều này vừa làm giảm tốc độ trần thuật, vừa gợi không gian liêu trai, vừa mộng mơ, u uẩn: "Diu à, ta biết hôm nay nàng sẽ lên rừng. Ta sẽ ngồi đợi. Thảo quả đang nở hoa vàng lắm. Những bông thảo quả non đã bung nở hết rồi. Chúng như chính nàng bây giờ. Nàng là gái một con, đang độ đẹp nhất của cuộc đời. Dù lâu lắm rồi ta không gặp nàng, không giúp nàng sinh con và cả không đến cùng dòng họ để mua đứa con của chính mình" (Sẹ hoang)...

Chu Thị Minh Huệ là tác giả nổi bật trong số các nhà văn thế hệ 8x. Chị ghi dấu ấn trong bản đồ văn học đương đại về miền núi bởi sự thâm nhập, trải nghiệm sâu, trí tưởng tượng phong phú và những tình cảm nhân văn trong cốt tủy. Dư địa và tiềm năng sáng tác của Chu Thị Minh Huệ còn rất nhiều. Với con đường văn học nhiều chông gai và đủ thứ lạ lùng, mạo hiểm, chúng ta không thể tiên đoán trước điều gì. Tuy nhiên, với những gì đã thiết tạo về đề tài miền núi, Chu Thị Minh Huệ đã tạo được một dấu ấn riêng, không trộn lẫn.

Phùng Gia Thế
.
.