Ánh sáng tri thức trong sắc màu hội họa Việt

Thứ Hai, 24/11/2025, 15:43

Từ những bức tranh dân gian Đông Hồ mộc mạc đến hội họa đương đại đầy sáng tạo, hình ảnh người thầy, mái trường và tinh thần hiếu học luôn hiện diện trong nghệ thuật Việt Nam. Mỗi gam màu, mỗi nét cọ đều như ánh sáng tri thức soi rọi hành trình văn hóa dân tộc.

Trong dòng chảy hơn một thế kỷ của mỹ thuật Việt Nam, đề tài giáo dục luôn là mạch nguồn cảm hứng bền bỉ. Từ khi Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ra đời năm 1925, nhiều họa sĩ đã dùng hội họa để tôn vinh tri thức, khơi dậy tinh thần hiếu học và xây dựng con người mới. Hình ảnh người thầy, lớp học, mái trường dần trở thành biểu tượng của niềm tin và khát vọng khai sáng.

Giáo dục trong hội họa truyền thống

Trong dòng tranh dân gian Việt Nam như Đông Hồ, Hàng Trống, Kim Hoàng…, hình ảnh “ông đồ dạy học”, “em bé học chữ” xuất hiện quen thuộc, phản ánh truyền thống trọng học, coi tri thức là thước đo phẩm hạnh. Những bức tranh mộc mạc ấy không chỉ tả thực sinh hoạt mà còn khẳng định giá trị của con chữ và con đường khoa cử trong xã hội xưa.

Tiêu biểu là bức “Thầy đồ cóc” của tranh Đông Hồ - tác phẩm giàu triết lý về việc học và dạy học. Trong văn hóa Lạc Việt, con cóc vốn được xem là “cậu ông Trời”, biểu tượng linh thiêng, nhưng ở đây lại hóa thân thành ông thầy dạy học, gợi nên nhiều suy ngẫm. Có người xem đó là lời châm biếm lối học hời hợt, song theo nhà nghiên cứu Viên Như, bức tranh còn ẩn chứa tư tưởng sâu xa về nguồn gốc tri thức Việt.

1.jpg -0
Tác phẩm “Thầy đồ cóc” - Tranh dân gian Hàng Trống.

Qua hình tượng thầy Cóc và bài thơ minh họa, người xưa ngụ ý rằng người Lạc Việt mới là chủ nhân của Dịch học và chữ viết cổ - nền tảng tri thức phương Đông mà về sau người Trung Hoa tiếp thu và phát triển. Vì thế, “Thầy đồ cóc” không đơn thuần là tranh dân gian, mà là biểu tượng văn hóa về trí tuệ, bản sắc và niềm tự hào dân tộc.

Suốt hàng ngàn năm, lớp học của thầy Cóc vẫn như một “bài giảng vô ngôn”, vang vọng nỗi đau mất mát và khát vọng phục hưng văn hóa Việt. Tác phẩm ấy nhắc nhớ con cháu hôm nay về cội nguồn tri thức dân tộc - nơi nghệ thuật dân gian trở thành tấm gương phản chiếu tinh thần hiếu học và ý chí gìn giữ bản sắc Việt.

Hội họa giai đoạn Mỹ thuật Đông Dương (1925 - 1954)

Giai đoạn 1925 - 1954 đánh dấu bước ngoặt hiện đại của mỹ thuật Việt Nam với sự ra đời của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương - nơi hội tụ tinh hoa Đông -Tây, mở đầu cho nền hội họa chuyên nghiệp. Tiếp thu kỹ thuật tạo hình phương Tây nhưng vẫn hướng đến tinh thần dân tộc, nhiều họa sĩ đã thể hiện trong tác phẩm những giá trị nhân văn và tinh thần giáo dục khai sáng con người.

Bức “Em Thúy” (1943) của Trần Văn Cẩn là biểu tượng cho vẻ đẹp trong sáng, hồn nhiên - gợi tình yêu thương và lòng nhân ái. Cùng tinh thần ấy, các tác phẩm như “Lớp trung học đầu tiên” (Diệp Minh Châu), “Lớp học bổ túc Quảng Nam” (Văn Giáo), “Đốt đuốc đi học” (Tô Ngọc Vân), “Bình dân học vụ” (Lưu Công Nhân)… đã khắc họa phong trào xóa nạn mù chữ, phản ánh khát vọng học tập và xây dựng xã hội mới.

3.jpg -1
Tác phẩm "Em nào cũng được đi học" của họa sĩ Sỹ Tốt.

Hội họa Đông Dương đã đưa giáo dục ra khỏi phạm vi truyền thống, đặt trong bối cảnh hội nhập văn minh phương Tây, hướng đến khai phóng con người và xây dựng nền học thuật hiện đại. Chính từ môi trường ấy, nhiều họa sĩ tài danh trưởng thành, tiếp nối tinh thần hiếu học trong sáng tác. Sau 1954, mạch nguồn tri thức ấy tiếp tục lan tỏa trong hội họa kháng chiến - nơi hình ảnh thầy trò, lớp học trở thành biểu tượng của trí tuệ và niềm tin vào tương lai độc lập.

Hội họa giai đoạn kháng chiến (1954 -1975)

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, đất nước bước vào thời kỳ đấu tranh gian khổ giành độc lập, và mỹ thuật Việt Nam hòa chung nhịp thở dân tộc. Nhiều họa sĩ trưởng thành từ Trường Mỹ thuật Đông Dương đã khoác ba lô ra trận, mang theo giá vẽ, bút lông và niềm tin vào tương lai. Trong hoàn cảnh chiến tranh, họ vừa là chiến sĩ, vừa là người thầy - ghi lại hình ảnh lớp học giữa rừng, trường vùng tự do, trẻ em đến lớp trong bom đạn.

Các chất liệu truyền thống như sơn mài, lụa, khắc gỗ được khai thác linh hoạt, thể hiện tinh thần tự chủ và sáng tạo. Đề tài “Giáo dục trong hội họa” trở thành mạch cảm hứng lớn, khắc họa tinh thần hiếu học và niềm tin vào ánh sáng tri thức. Nhiều tác phẩm tiêu biểu như “Lớp học bình dân làng Bền” (Trần Văn Cẩn), “Bình dân học vụ” (Lưu Công Nhân), “Lớp học ở Tây Nguyên” (Nguyễn Thế Vinh), “Lớp học bổ túc” (Nông Công Thắng)… đã tạo nên diện mạo riêng cho mỹ thuật kháng chiến.

Bằng kỹ thuật khắc gỗ màu, Nguyệt Nga miêu tả sinh động hình ảnh học sinh đội mũ rơm đi học giữa chiến tranh, còn Thế Vinh trong bức “Lớp học bổ túc buổi trưa” (1960) - khắc họa cảnh người lớn tuổi mải miết học chữ, gợi xúc động về khát vọng học tập của nhân dân. Với sơn mài, Nguyễn Thế Vinh mang đến “Lớp học ở Tây Nguyên” (1970) lối bố cục cận cảnh, màu sắc trang trí, thể hiện tình cảm gắn bó giữa thầy trò vùng cao. Tranh lụa của Nông Công Thắng lại nhẹ nhàng, mềm mại, tôn lên vẻ đẹp mộc mạc của cô gái Tày trong “Lớp học bổ túc”, thể hiện sự giao hòa giữa dân tộc và tri thức.

Đặc biệt, “Em nào cũng được đi học” (1957) của Sỹ Tốt là dấu ấn sâu sắc: ánh sáng sơn dầu ấm áp, chan hòa niềm vui trẻ thơ - biểu tượng cho xã hội mới, nơi mọi đứa trẻ đều có quyền đến trường. Còn “Bác Hồ thăm lớp vỡ lòng” (1975) của Đỗ Hữu Huề khắc họa hình ảnh Bác - người thầy lớn của dân tộc, biểu trưng cho đạo lý “trồng người”.

Trong chiến tranh, giáo dục trong hội họa không chỉ là đề tài, mà là biểu tượng tinh thần - khẳng định sức mạnh của niềm tin và trí tuệ Việt Nam. Bom đạn có thể tàn phá làng mạc, nhưng ánh sáng tri thức vẫn bền bỉ tỏa sáng, nuôi dưỡng ý chí độc lập và nhân cách con người Việt Nam.

Hội họa thời kỳ Đổi mới và đương đại (1975 đến nay)

Sau ngày thống nhất đất nước (30/4/1975), đề tài giáo dục trong hội họa chuyển sang hướng mới. Số lượng tác phẩm cụ thể về lớp học không nhiều, song vẫn xuất hiện những bức ấn tượng như “Vườn trẻ” (1993) của Nguyễn Kim Đồng, “Sau giờ thể dục” (1996) của Nguyễn Phàn, “Lớp học miền núi Tây Bắc” (1980) của Hoàng Đạo Khánh - phản ánh đời sống giáo dục trong thời bình, mở đầu cho bước chuyển của mỹ thuật sau chiến tranh.

Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc năm 1976 - với sự góp mặt của họa sĩ cả hai miền - đánh dấu bước hợp lưu quan trọng của nghệ thuật Việt Nam. Bức “Tan ca mời chị em ra họp để thi chọn thợ giỏi” (Nguyễn Đỗ Cung) thể hiện hình tượng người lao động mới, báo hiệu tinh thần đổi mới trong quan niệm sáng tác. Nhà phê bình Nguyễn Quân từng nhận xét: “Sau 1975, hai dòng mỹ thuật Bắc - Nam hợp lại như hai con sông, tạo nên dòng chảy đa chiều, phong phú và giàu sức sống”.

Từ năm 1986, công cuộc “Đổi mới” mang lại không khí tự do sáng tạo. Mỹ thuật thoát khỏi khuôn mẫu tuyên truyền, hướng tới khẳng định cá tính và bản sắc cá nhân. Giáo dục thẩm mỹ không còn chỉ “minh họa lý tưởng”, mà trở thành con đường hình thành nhân cách, nuôi dưỡng tư duy độc lập và tình yêu cái đẹp.

Đặc biệt, trong hai thập niên gần đây, nghệ thuật công cộng và kỹ thuật số phát triển mạnh, trở thành kênh giáo dục thị giác mới. Các dự án tranh tường, tượng đài, không gian nghệ thuật cộng đồng tại Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Thái Nguyên… không chỉ làm đẹp đô thị mà còn lan tỏa thông điệp về văn hóa, môi trường và lòng nhân ái - biểu hiện sinh động của tinh thần giáo dục qua hội họa trong thời kỳ đương đại.

Lời kết

Từ tranh dân gian đến hội họa đương đại, hình ảnh người thầy, mái trường và tinh thần hiếu học luôn là mạch nguồn bền bỉ trong mỹ thuật Việt Nam. Đề tài giáo dục không chỉ làm phong phú diện mạo hội họa dân tộc, mà còn khẳng định vai trò của tri thức trong hành trình dựng xây đất nước.

Về nghệ thuật, đó là một mảng đề tài phong phú, góp phần làm giàu thêm diện mạo hội họa dân tộc. Về xã hội, đó là sự khẳng định vai trò giáo dục trong quá trình phát triển đất nước, từ truyền thống hiếu học đến công cuộc đổi mới.

Về văn hóa, đó là sự tôn vinh nghề giáo - nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý, phản ánh truyền thống tôn sư trọng đạo đã ăn sâu vào tâm thức người Việt. Chính nhờ những tác phẩm hội họa ấy, ta càng nhận ra rằng, giáo dục không chỉ là công việc dạy và học, mà còn là “chất liệu tinh thần” bền vững của dân tộc, được gìn giữ và truyền tải bằng ngôn ngữ tạo hình.

Nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, khi chiêm ngưỡng những tác phẩm khắc họa thầy và trò, ta như được nhắc nhớ rằng: giáo dục không chỉ là công việc dạy và học, mà là “chất liệu tinh thần” của dân tộc - nuôi dưỡng nhân cách, gieo hạt giống tâm hồn và thắp sáng con đường phát triển cho mai sau. 

Nguyễn Gia Bảy
.
.