Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: Cái tên bảo chứng cho lượng độc giả
- Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư ký tặng sách mới tái bản tại TP.HCM
- Thêm một tác phẩm của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư lên sân khấu
- "Dòng nhớ" của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư trở lại sân khấu kịch
- Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: Không viết văn, tôi chẳng biết làm nghề gì
1. Sau lời chào ngắn gọn, cảm ơn sự hiện diện của cô chú, anh chị và các bạn trẻ, Nguyễn Ngọc Tư ngồi vào bàn, ký liên tục gần 3 giờ đồng hồ. Dòng người xếp hàng, từ độc giả 9 tuổi đến độc giả gần gấp 9 lần tuổi ấy, háo hức và hân hoan.
Nhiều bạn trẻ, tưởng chừng chỉ thích ngôn tình lướt thướt mưa bay cuồng quay sến sẩm đã đến với nhà văn rất chân thành. Mỗi độc giả, ngoài chữ ký vào những cuốn sách mới và cũ là vài câu hỏi thân mật với nhà văn, sau đó tạo dáng chụp hình. Không phân biệt được là độc giả vui khi gặp nhà văn hay nhà văn vui khi gặp độc giả. Có lẽ là cả hai!
Nhà thơ Cao Xuân Sơn, Giám đốc Chi nhánh NXB Kim Đồng tại TP Hồ Chí Minh thở phào: "Đẹp. Quá đẹp. Lúc tám rưỡi anh vào, nhìn nhà để xe mới lèo tèo vài xe, tưởng bể rồi. Thế mà nhoằng cái, hàng xếp mãi vẫn không hết. Nguyễn Ngọc Tư vẫn là cái tên bảo chứng cho lượng độc giả". Không chỉ mình nhà thơ Cao Xuân Sơn lo, bản thân tôi là người làm công tác tổ chức, cũng lo.
Trước đấy, chưa đầy một tuần, sau khi nâng lên đặt xuống, điều lịch qua chỉnh lịch lại, chúng tôi mới quyết định ngày diễn ra sự kiện và bắt tay vào làm truyền thông. Một vài báo đưa tin. Mạng xã hội được tận dụng tối đa. Có phần cập rập.
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. |
2. Nguyễn Ngọc Tư được biết đến từ giải Nhất cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi 20 lần thứ 2 năm 2000, với tập truyện mỏng, hạn chế về dung lượng chữ nhưng ăm ắp tình người, là Ngọn đèn không tắt. Chánh chủ khảo lần ấy, ông chủ của Chiếc lược ngà, nhà văn Nguyễn Quang Sáng khẳng định: "Qua ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư, những con người lam lũ, giản dị, bộc trực chứa bên trong cả một tâm hồn vừa nhân hậu vừa tinh tế qua cách đối nhân xử thế. Ngọn đèn không tắt là tập truyện vừa hấp dẫn vừa thuyết phục, xứng đáng đoạt giải Nhất".
Nhưng Nguyễn Ngọc Tư chỉ thật sự "không tắt" sau Cánh đồng bất tận. Truyện vừa này ban đầu được in dài kỳ trên báo Văn nghệ. Và lặn vào lặng thinh như chính tờ báo của giới văn chương cả nước này trong đời sống hiện nay. Chỉ khi Tuổi Trẻ Cuối tuần in lại mới bắt đầu gây xôn xao. Các nhà chuyên môn vào cuộc. Hội Nhà văn vào cuộc.
Tập truyện được trao giải thưởng Hội Nhà văn, như một lời khẳng định đây là tác phẩm văn chương thực sự, và quan trọng, là hay. Không thể nhìn tác phẩm văn chương như cách dùng kính hiển vi soi vi trùng của các nhà sinh học.
Tiếp đến, Cánh đồng bất tận nhận giải thưởng Văn học ASEAN, là giải thưởng trước giờ thường thuộc về các cây đa cây đề, sống gần trung ương, như Tố Hữu, Nguyễn Khải, Nguyễn Kiên, Hữu Thỉnh, Đỗ Chu, Trần Đăng Khoa, Ma Văn Kháng, v.v…, chứ không "nghìn trùng xa cách" như Nguyễn Ngọc Tư.
Không dừng lại ở đấy, vài năm sau Cánh đồng bất tận làm nên cơn sốt phòng vé, khi được chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên. Rõ ràng điện ảnh là bài toán khác. Nhưng không thể phủ nhận bản thân Cánh đồng bất tận là yếu tố cộng hưởng kéo khán giả vào rạp. Nhiều người đọc đến rạp với tâm thế để xem "cánh đồng" trên phim thế nào, có "bất tận" như truyện không?
Giờ đây Cánh đồng bất tận đã chạm mốc 150.000 bản in. Con số mà bất kể nhà văn Việt nào mơ giữa ban ngày cũng khó thấy. Đây chắc chắn chưa phải con số cuối cùng. Và trong khoảng đợi truyện từ mặt giấy lên màn ảnh lớn, Nguyễn Ngọc Tư liên tục "nhảy" như kiểu vận động viên chạy 100m vượt rào, với mỗi năm một đầu sách, thậm chí nhiều hơn. Có thể điểm vài tập truyện/ tiểu thuyết là Giao thừa, Sầu trên đỉnh Puvan, Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, Khói trời lộng lẫy, Sông, Đảo, Không ai qua sông.
Có dạo Nguyễn Ngọc Tư "bao" trang tản văn trên báo Phụ nữ TP Hồ Chí Minh số Chủ nhật, sau lan sang một số tờ báo khác. Đều đặn. Đắm đuối. Nếu như ngoài Bắc có tản văn Nguyễn Việt Hà, hào hoa, bay bổng, khinh bạc, giàu mùi kiếm hiệp lắm tích truyện Tàu, thì trong Nam là tản văn Nguyễn Ngọc Tư, da diết, chân chất nhưng không thiếu độ quái với cái nhìn sắc lẻm.
Kết quả là để liệt kê đầy đủ các tập tản văn của chị e là không dễ, vì quá nhiều. Tôi chỉ có thể kể ngẫu nhiên, như Biển của mỗi người, Ngày mai của những ngày mai, Bánh trái mùa xưa, Yêu người ngóng núi, Gáy người thì lạnh, Đong tấm lòng…
3. Sáng ấy trời Sài Gòn nhẹ tênh. Hanh hao nắng và hớt hơ gió. Sau khi ổn định công tác tổ chức, tôi được giao nhiệm vụ đi đón nhà văn Nguyễn Ngọc Tư từ khách sạn về địa chỉ 248 Cống Quỳnh, nơi diễn ra sự kiện.
Tôi gọi điện, chị nói không cần đón cầu kì thế, chị có thể tự qua được. Tôi đùa, nói để em đón, chị đi một mình lỡ bị bắt cóc thì tổn hại đến nguyên khí quốc gia. Em sẽ dẫn chị đi đường tắt để không bị những fan cuồng phát hiện. Y hẹn. Mười phút sau tôi đón chị ở sảnh khách sạn. Đây là lần đầu tiên tôi được diện kiến nhà văn, chủ sở hữu của những trang văn được xem là đặc sản của miền sông nước miền Tây. Không khác nhiều với hình dung, chị dễ gần và thân thiện.
Taxi vừa lăn bánh tôi liền chìa hai cuốn sách mới về phía chị, nhờ chị ký tặng, nói chị ký đề - pa để lát ký cho độc giả đẹp hơn. Trước đấy, phòng truyền thông đặt vấn đề muốn nhà văn Nguyễn Ngọc Tư giao lưu với độc giả 20 - 30 phút trước khi ký tặng. Nhưng chị từ chối. Chỉ ký tặng. Không giao lưu. Rõ ràng và kiên định.
Như vậy thì hơi khó cho những người tổ chức chương trình. Chúng tôi lo sợ buổi ký tặng trở nên đơn điệu, khó kéo được đông đảo người đọc. Nhưng tôi nhầm. Chỉ cần tên Nguyễn Ngọc Tư thôi là đủ để giải quyết sự hiện diện của độc giả và báo chí.
Một số tác phẩm mới xuất bản của Nguyễn Ngọc Tư. |
4. Nguyễn Ngọc Tư không lợi khẩu ở chỗ đông người. Dường như chị tự biết điều này nên hạn chế tương tác trực tiếp. Hay sau vài cuộc "kinh nghiệm xương máu" rồi nên chị muốn tránh? Nhưng theo dõi các bài phỏng vấn thì thấy, chị sắc sảo và chắc chắn. Thêm nữa là, không thiếu sự hài hước. Rất biết điểm huyệt và bật ngược người hỏi.
Cứ như chị chủ động trước những câu hỏi chứ không phải bị động như thường thấy ở các nhân vật được hỏi. Viết đến đây tôi nhớ đến câu nói của Goethe: "Trí tuệ con người trưởng thành trong tĩnh lặng, còn tính cách trưởng thành trong bão táp".
Cứ tưởng tượng, ông trời chỉ cho con người ta một "gói" diễn đạt nhất định, ngôn ngữ viết tốt thì ngôn ngữ nói sẽ hạn chế, và ngược lại. Số người sinh ra lúc ông trời ngủ quên nên vừa viết hay vừa nói giỏi thường không nhiều. Ông bà nhà mình thì nói: chim khôn thường giấu mỏ.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu là ví dụ điển hình, sinh thời ông rất sợ đám đông, có giai thoại kể rằng chỉ nói chuyện trước học sinh cũng khiến ông lúng túng. Ông chỉ tự tin trước trang giấy. Dù với người viết nhiều khi đấy là pháp trường trắng. Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư dẫu không lúng túng so với tiền bối, nhưng chị không hào hứng. Có lẽ khôn khéo có sức nặng và chìm xuống, lặn vào câu chữ chứ không ra theo đường miệng.
Trong bữa trưa nhẹ nhàng ít người sau sự kiện, mới thấy Nguyễn Ngọc Tư "quái" hơn tôi nghĩ. Chị ít nói. Nhưng nói câu nào chết câu ấy. Kiểu "đâm bị thóc chọc bị gạo" tỉnh bơ cho mọi người cười. Và nụ cười của chị thì có thể hóa giải mọi chuyện, có thể hiểu là cười trừ, là thân thiện, là xí xóa. Thật đến không thể thật hơn.
5. 14 giờ. Tôi chở chị ra bến xe khách. Ngồi sau xe, chị hỏi tôi đang đọc gì, đang viết gì? Hai câu hỏi quan trọng đối với mỗi người viết. Hỏi qua lại. Hóa ra Nguyễn Ngọc Tư ngốn sách kinh khủng hơn tôi tưởng. Cứ như chị đọc "báo thù" cho năm tháng trước đây. Và ở miền xa xôi nhất nước, nhưng tình hình văn chương chị vẫn cập nhật với nhiều tin nóng không phải ai cũng biết. Chị nói 6 giờ nữa sẽ về đến nhà.
Tôi bảo, sao chị không về khuya, ngủ trên xe sáng ra về đến nơi. Chị bảo trên xe không ngủ được, đi như này về nhà ngủ vẫn hơn. Nhưng về khuya thân gái? Chị bảo, chị lo cho bến xe thôi chứ mình thì khỏi lo. Tôi chỉ biết cười. Đúng kiểu giỡn của bác Ba Phi. Đến bến xe, chị xách ba lô, nói: "Cảm ơn cưng!" rồi nhanh chóng lẫn vào đám đông hành khách.
Từ "cưng" của người miền Tây sao mà ngọt. Cảm giác bâng lâng bảng lảng, tôi chạy xe ngược lại, qua hầm Thủ Thiêm, về nhà cuối tuần! Vậy là qua một sự kiện thật tròn và đầy, thật ấm và nồng, với nhà văn của miền sông nước miền Tây.