Khi bậc danh y cũng là nhà tư tưởng!

Thứ Bảy, 25/04/2020, 08:09
Trong những ngày đại dịch COVID - 19 này, chúng ta tự hào về những "chiến binh áo trắng" đang dũng cảm và bản lĩnh trên tuyến đầu "Chống dịch như chống giặc" để đẩy lùi "giặc virus". Bài viết nhỏ này xin được coi như lời cảm ơn tới họ.


Người đầu tiên coi y học là ngành khoa học là Hippocrates (khoảng 460-370 trước Công nguyên), cũng là người được coi là cha đẻ của Y học phương Tây, tác giả của lời thề Hippocrates bất hủ. Sinh tại đảo Cos (Hy Lạp), Hippocrates được học nghề y từ cha và trở thành một y sĩ Hy Lạp. 

Thời đó y học quan niệm bệnh tật được chữa trị bằng những hiện tượng siêu nhiên, là lĩnh vực của phù thủy, pháp sư và thầy lang. Tuy nhiên, Hippocrates có một quan niệm mới hẳn, coi bệnh tật có nguyên nhân tự nhiên. Ông nghiên cứu sinh lý học, giải phẫu, tìm hiểu các nguyên nhân để có kết luận bệnh tật là do mất cân bằng tỷ lệ dịch trong cơ thể gây ra. Do đó thầy thuốc có thể can thiệp giúp cơ thể trở về trạng thái cân bằng. 

Nguyên tắc y học của ông là: "Trước tiên là không làm gì có hại" và "Y thuật thì dài còn cuộc đời thì ngắn". Đó là những vấn đề mang tính nền móng để y học như một khoa học phát triển. Trước tác nổi tiếng của ông còn lại đến nay chính là "Lời thề Hippocrates" được các bác sĩ thuộc nằm lòng và thề nguyện làm theo trước khi bắt đầu hành nghề. 

Mở đầu Lời thề này là sự "chứng giám" của các vị Thần trong huyền thoại Hy Lạp: "Tôi xin thề trước Apollon thần chữa bệnh, trước Esculapius thần y học, trước thần  Hygieia  và Panacea…".

Danh y Lê Hữu Trác.

Theo thời gian, để phù hợp với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, lời thề này được chỉnh sửa, bản gần nhất là vào năm 1964 do bác sỹ Louis Lasagna, Hiệu trưởng Trường Y khoa (Đại học Tufts). Nhiều quốc gia cũng lấy Lời thề Hippocrates làm cơ sở để xây dựng thành các tuyên ngôn, quy ước, quy định…của đất nước mình. Nước ta có "Mười hai điều Quy định về Y đức" nói về tiêu chuẩn đạo đức của người làm công tác y tế.

Đóng góp kinh điển của Hippocrates cho văn hóa nhân loại ở chỗ mở đầu cho khoa học y học, quan trọng hơn là đặt nền tảng cho đạo đức y học.

Ở phương Đông, vào khoảng thế kỷ V.TCN có một đại danh y tên là Biển Thước. Ông là người tìm hiểu, nghiên cứu cách "bắt mạch" để xem bệnh. Khoa "Mạch học" của y học cổ truyền phương Đông hầu như dựa vào nguyên lý của Biển Thước để phát triển và hoàn chỉnh. Ông đọc rộng, biết nhiều, khởi đầu chữa các bệnh về tai, mắt, về sau yêu trẻ con mà đi sâu vào nhi khoa. Có hẳn một "chùm" riêng trong kho tàng truyền thuyết dân gian Trung Quốc ca ngợi ông chữa khỏi nhiều bệnh, kể cả các bệnh nan y cho trẻ con mà không lấy tiền…. 

Những điều ấy cho thấy Biển Thước song toàn cả về Y thuật và Y đức. Thời đó mê tín còn ngự trị thế mà ông đã có một tuyên bố bất hủ: "Chỉ tin thầy bói mà không tin thầy thuốc thì không thể khỏi bệnh". Để có một câu nói ấy phải có sự "bảo hiểm" của một bản lĩnh lớn, nhất là một niềm tin vào cách chữa bệnh trên cơ sở thăm khám con bệnh một cách chu đáo, cẩn thận để tìm ra nguyên nhân căn bệnh. 

Trước tác ông để lại thành tài sản quý báu cho nền Y học cổ truyền phương Đông, nổi tiếng nhất là bộ "Hoàng đế 81 nạn kinh" (gọi tắt là Nạn kinh) làm cơ sở cho khoa học châm cứu hiện đại.

Đọc "Tam quốc diễn nghĩa", chúng ta khó quên chi tiết danh y Hoa Đà xem bệnh cho Tào Tháo và nói phải mổ sọ mới chữa được. Chưa bàn tới bệnh đa nghi của Tháo, chỉ nói tới thời đó y học chưa thể có chuyện "phẫu thuật sọ não", thế nên không những không cho chữa mà Tháo còn giết Hoa Đà. Nhân loại mất một đại danh y…

Hoa Đà (?-220) là danh y lớn rất chịu khó học và thực nghiệm y thuật. Chưa nói tới truyền thuyết, trong chính sử (và truyền kỳ) như ở sách "Hậu Hán thư", phần "Hoa Đà truyện ký" có nói ông đã làm phẫu thuật ổ bụng. Trong "Tam quốc" có những chi tiết gần với chính sử là trước thuật của ông bị đốt gần hết. Y thuật và Y đức của Hoa Đà còn truyền vào sách các học trò rất nổi tiếng của ông. Qua sách của Lý Đương Chi, người ta biết Hoa Đà rất giỏi về Dược. 

Qua y thư của Phàn Kha người ta biết Hoa Đà kế thừa châm cứu từ Biển Thước… Những gì sót lại, các học trò tập hợp thành quyển "Trung tàng kinh", qua đây y học hiện đại mới thấy chính ông là người đầu tiên mở đường cho chuyên ngành phẫu thuật. Ông cũng là người mở đầu cho rèn luyện thể lực bằng cách "tập thể dục" và "lao động": "Lao động làm cho khí huyết lưu thông…ví như then cửa đóng mở luôn thì không rỉ, nước chảy luôn thì không thối". Đó thật sự là tư tưởng lớn!

Với tư tưởng "Nam dược trị Nam nhân" (thuốc nước Nam chữa bệnh cho người Nam) đậm tinh thần dân tộc, được hậu thế suy tôn là ông Tổ ngành dược, Thiền Sư Tuệ Tĩnh (1300-?) là người mở đầu nền y dược cổ truyền Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, biệt hiệu Hồng Nghĩa, pháp hiệu Tuệ Tĩnh. Quê làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thai (Cẩm Giàng - Hải Dương). 

Là người sớm thấm nhuần tư tưởng cứu thế của nhà Phật, dù đã đỗ Thái học sinh (thời Trần Dụ Tông) nhưng không ra làm quan, ông trở về tu tập với pháp danh Tuệ Tĩnh và học nghề thuốc cứu người. Y thuật của Tuệ Tĩnh nổi tiếng đến mức triều đình lấy ông làm "vật" cống phẩm ngoại giao. Ông lại trở thành Đại thái y của hoàng cung triều Minh. 

Khao khát về quê nhưng cuối cùng vẫn không được thỏa, đành trối trăng khắc vào phần mộ câu thơ nhức nhối đau đáu tình yêu quê hương: "Ai về nước Nam cho tôi theo với". Các bộ sách thuốc của ông rất quý với chúng ta, nhất là sách về dược tính của 580 vị thuốc Nam và hàng ngàn phương thuốc điều trị hàng trăm loại bệnh.

Lời thề Hippocrates!

Đại danh y Lê Hữu Trác (1720-1791) hiệu Hải Thượng Lãn ông (ông già lười Hải Thượng) để lại các sách kinh điển như "Nội kinh", "Nam kinh", "Thương hàn", "Kim quỹ". Tư tưởng của ông là tìm hiểu y học cổ truyền của dân tộc, tiếp thu tinh hoa y lý phương Đông để có cách chữa bệnh rất riêng. Bộ "Y tôn tâm lĩnh" (28 tập, 66 quyển) đề cập nhiều phương diện y học gồm Y đức, Y lý, Y thuật, Dược, Di dưỡng. Y lý của ông được diễn đạt với một phong cách văn chương đặc sắc: ngắn gọn mà tinh tế, hài hước mà thấm thía, bao quát mà đầy đủ. Tập "Thượng kinh ký sự" vừa là văn chương, vừa là y học: "Đó là vì Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên phủ tạng yếu đi. 

Vả lại, bệnh mắc đã lâu, tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò. Đó là vì nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức". Văn phong trào phúng mỉa mai là nét riêng của phong cách này: "Thế tử thực là người trời, gan vàng dạ sắt! Một năm nay uống không biết bao nhiêu thuốc mà thần sắc vẫn như thường. Nếu là con nhà thường dân thì không thọ được một ngày". Tư tưởng Y đức của ông còn sáng mãi với hậu thế: "Làm thuốc thì phải nghĩ đến việc cứu người chứ! Cái lòng trung của kẻ làm tôi ở trong nghề thuốc ở đâu?". Với ông thì "văn là người" là rất rõ.

Khi giặc Pháp xâm lược Nam bộ, cả đất nước được nghe tiếng thơ yêu nước của nhà thơ lớn Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888). Ông vốn là một thầy thuốc tài năng, đức độ. Bi kịch đời riêng gặp bi kịch mất nước không cho phép ông đi theo con đường công danh khoa cử. Ông về quê dạy học, bốc thuốc, viết văn. Bằng tình yêu nước, yêu dân và tài năng văn chương, ông đã điêu khắc bằng ngôn từ hình tượng người nghĩa sỹ Cần Giuộc kỳ vĩ tỏa sáng tinh thần xả thân vì nước. Tác phẩm y học nổi tiếng nhất của ông là "Ngư tiều y thuật vấn đáp" đậm phong vị văn chương nói rất sinh động về cách chữa bệnh bằng thuốc Nam và một tư tưởng Y đức lớn: "Thấy người đau giống mình đau/ Phương nào cứu đặng, mau mau trị lành".

Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao trên bầu trời văn hóa Việt Nam tỏa sáng tinh thần yêu nước của dân tộc mở đầu công cuộc chống thực dân Pháp xâm lược. Ông như một tượng đài văn hóa sừng sững để hậu thế chiêm ngưỡng, kính trọng, học tập với hình ảnh một tay bốc thuốc cứu người, một tay cầm bút đuổi gặc. Có thể coi hai câu thơ bất hủ của ông là mục đích, là lý tưởng của mỗi văn nghệ sĩ: "Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà".

Ở thời hiện đại cũng thấy một quy luật chung là những nhà khoa học lớn (cả tự nhiên, xã hội) cũng thường là những nhà tư tưởng. Bởi tiếp cận với đỉnh cao khoa học là tiếp cận với chân lý, và chân lý cũng là cái đích vươn tới của tư tưởng!

Nguyễn Thanh Tú
.
.