Họ là những nghệ sĩ - chiến sĩ

Thứ Bảy, 19/05/2007, 08:30
Mỗi điểm diễn cách nhau, gần là nửa ngày đường, xa là gần trọn một ngày. Thành thử, suốt đợt lưu diễn, lịch của Đoàn là: ngày, hành quân, tranh thủ ngủ trên xe, ăn trên xe. Đêm, diễn theo chương trình và có khi cả theo yêu cầu của bà con buôn làng.

Nhờ có năng khiếu nghệ sĩ và lòng đam mê nghệ thuật mà khi lãnh đạo Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) có quyết định xây dựng một đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp, họ được tuyển chọn về rồi trở thành ca sĩ, nhạc sĩ, nhạc công, diễn viên kịch nói và đôi lúc có người còn lấn sân sang điện ảnh.

Nhiệm vụ của họ là: biểu diễn nghệ thuật phục vụ cán bộ chiến sĩ và nhân dân, tuyên truyền truyền thống của lực lượng CAND, động viên cán bộ chiến sĩ nâng cao phẩm chất cách mạng, trình độ thẩm mĩ, động viên phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc…

Từ ấy đến nay, hai nhăm năm đã trôi qua, mọi hoạt động nghệ thuật của họ đều gắn liền với những chuyến đi biểu diễn phục vụ trên hầu khắp các nẻo đường đất nước.

Hát bằng ngọn lửa đam mê trong tim

Thượng tá Nhạc sĩ Phạm Minh Sơn - Phó trưởng đoàn phụ trách sân khấu ca nhạc tâm sự: Đến mùa xuân này, riêng bộ phận ca múa nhạc của đoàn Nghệ thuật CAND đã tổ chức hàng ngàn buổi biểu diễn, phục vụ hàng chục triệu khán giả là cán bộ, chiến sĩ và nhân dân cả nước.

NSƯT Đức Lợi -  tân Phó trưởng đoàn nhớ lại một lần đi lưu diễn mà theo anh là “suốt đời không quên”. Ấy là chuyến đi Tây Nguyên vào thời điểm tình hình chính trị - xã hội ở một số buôn làng có những biến động không bình thường.

Một cảnh trong vở "Vòng xoáy" của Nhà văn Hữu Ước do Đoàn nghệ thuật CAND dàn dựng.

... Buôn Mo là một trong những “điểm nóng” thuộc địa bàn tỉnh Gia Lai và là một trong những địa điểm mà Đoàn chọn đến biểu diễn. Từ thị xã Plâycu “hành quân” gần một ngày mới đến nơi. Dựng sân khấu xong thì trời nhá nhem tối. Loa phóng thanh liên tục phát đi lời mời đồng bào đến xem văn công miễn phí. Nhưng nửa giờ, một giờ trôi đi vẫn không thấy bóng khán giả nào.

Đồng chí Phạm Minh Sơn bàn với đại diện Công an huyện và Bí thư đảng ủy xã đến gặp già làng nhờ sự giúp đỡ. Những tiếng nói chân tình đã xuôi tai già làng. Vài chục phút sau khi có lời chỉ bảo của già làng trên loa, khắp các ngả đường, từng tốp thanh niên, từng đoàn xe công nông chở người già, con trẻ rầm rập kéo đến coi hát!

Lần đầu tiên trong đời bà con buôn Mo được nghe tiếng đàn giọng hát hay đến thế. Coi văn nghệ “hay hung”, chả ai muốn về! Có người còn mạnh dạn bước lên sân khấu cùng hát, cùng múa với diễn viên trong đoàn. Lời khen cất lên râm ran. Hình ảnh các anh chị Công an hát hay những bài hát về Bác Hồ, về Đảng và cả về miền đất cao nguyên như lay động tâm can của đồng bào...

Cũng phải thôi, đêm ấy, giữa rừng Tây Nguyên chênh chao gió, giữa ánh đuốc bập bùng trên tay khán giả, các nghệ sĩ đã hát bằng ngọn lửa trong trái tim chiến sĩ. Với người nghệ sĩ chiến sĩ, sân khấu đêm rừng mới thực là nơi thăng hoa những tác phẩm mà họ đã từng giành được Huy chương vàng, Huy chương bạc ở các sân khấu hội diễn trong nước hay liên hoan ca nhạc quốc tế.

Tiếng hát của NSƯT Đức Lợi, giọng ca vàng Thanh Tâm, Tiến Lợi... đã hòa cùng âm thanh của đại ngàn, đồng điệu với những cung bậc tình cảm đồng bào các dân tộc, trở nên thiêng liêng và nồng nàn như lửa, như men rượu...

Sau đêm buôn Mo, các nghệ sĩ Công an còn tiếp tục xuyên rừng vượt núi đến hàng chục buôn làng khác. Mỗi điểm diễn cách nhau, gần là nửa ngày đường, xa là gần trọn một ngày. Thành thử, suốt đợt lưu diễn, lịch của Đoàn là: ngày, hành quân, tranh thủ ngủ trên xe, ăn trên xe. Đêm, diễn theo chương trình và có khi cả theo yêu cầu của bà con buôn làng.

Đang diễn, trời mưa, bà con đội áo mưa xem, anh chị em nghệ sĩ cũng đội mưa hát. Có lúc côn trùng kéo đến che kín ánh đèn sân khấu, khán giả phải dùng cành cây xua giúp diễn viên, càng vui! Còn rất nhiều kỷ niệm những chuyến lưu diễn dài ngày khác mà nói như anh em trong Đoàn: có thể kể “ngàn lẻ một đêm” không hết.

Nghe chuyện của họ, tôi chợt nảy ra một sự liên tưởng: các nghệ sĩ CAND hôm nay đã mang theo tố chất của những người lính xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước năm xưa. Người giải phóng quân đi theo ánh lửa từ trái tim thì người nghệ sĩ Công an cũng đã và đang đàn hát bằng ngọn lửa đam mê trong trái tim mình để góp sức vào sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc. --PageBreak--

Diễn kịch để tri ân đồng bào, đồng chí

Sân khấu kịch nói CAND có một sự khởi đầu may mắn. Ra đời vào đầu năm 1982 thì ngay cuối năm Đoàn đã được lãnh đạo Bộ giao dựng vở “Nữ ký giả”. Đó là một trong những tác phẩm sân khấu đồ sộ, xây dựng hình tượng người chiến sĩ an ninh mưu trí dũng cảm hoạt động trong cơ quan chóp bu của ngụy quyền Sài Gòn vào khoảnh khắc lịch sử hào hùng nhất của dân tộc: Mùa xuân 1975.

NSƯT Trần Nhượng - Phó trưởng đoàn NT CAND nhớ lại: Ngày ấy đội kịch chỉ có mười người và chưa một nghệ sỹ nào thành danh cả. Nhưng được sự  quan tâm, giúp đỡ mọi mặt của lãnh đạo Bộ và lãnh đạo Tổng cục, đội đã quyết tâm dựng vở. Phụ  trách kịch lúc ấy, anh Hoàng Thành Lợi đã mời các nghệ sĩ gạo cội của các đoàn bạn đảm nhiệm giúp các vai chính: Chị Thanh Tú vai Nữ ký giả, anh Hồ Thái vai Tổng biên tập báo Đời mới, anh Trọng Khôi vai Tổng thống ngụy Dương Văn Minh và anh Đào Bá Sơn vai Rôbớt...

“Nữ ký giả” ra mắt khán giả, lập tức trở thành một trong những sự kiện nổi bật trong đời sống sân khấu kịch nói Việt Nam suốt năm 1983. Vở diễn như một chứng chỉ để khẳng định niềm tin của lãnh đạo Bộ và của chính anh em nghệ sĩ trong Đoàn vào tương lai của sân khấu kịch nói CAND.

Từ niềm tin và kinh nghiệm học được từ các nghệ sĩ tài danh mà năm 1985, đội đã quyết tâm dàn dựng lại “Nữ ký giả” để tham gia hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc với một dàn diễn viên hoàn toàn “nội”.

Ngoài hạt nhân là các nghệ sĩ trong đoàn, vở diễn đã thu hút khá nhiều diễn viên trưởng thành từ phong trào văn nghệ quần chúng toàn lực lượng. Người đảm nhiệm vai nữ ký giả là Hương Dung được chọn từ Công an Hải Phòng. Với lối diễn độc đáo và tài hoa, “ký giả” Hương Dung đã đoạt Huy chương vàng. Vai Rôbớt do Trần Nhượng đảm nhiệm cũng được trao Huy chương bạc...

Hai tấm Huy chương cá nhân và công sức của tập thể nghệ sĩ của đoàn đã khiến vở diễn “Nữ ký giả” được trao Huy chương bạc. Sau cuộc trình làng hoành tráng trên sân khấu hội diễn và một số địa phương các diễn viên trưng tập lại trở về với đơn vị công tác cũ. Đội kịch dẫu được bổ sung thêm một số gương mặt mới nhưng với nhiệm vụ được giao, anh chị em chuyển hướng sang việc dàn dựng một sêri kịch mục về đề tài an ninh trật tự.

Đan xen với những vở kịch ngắn như “Tôi đi tìm tôi”. “Vô tích sự”, “Con cá chép vàng”… để có thể mang đến vùng sâu vùng xa  biểu diễn phục vụ đồng bào, đồng chí như những đoàn văn công xung kích thời chiến, Đoàn cũng rất chú trọng đến việc khai thác các vở diễn tầm trung nhưng giàu kịch tính và đậm nét nhân văn như “Thằng Mẫn tóc nâu”, “Đám cưới trong đêm mưa”, “Cuộc chia tay lần cuối”... để từng bước khẳng định thương hiệu “Kịch nói CAND”.

Mười năm trở lại đây, bắt đầu bằng việc dàn dựng vở “Người là đồng chí”- một tác phẩm sân khấu đặc sắc tri ân cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng và tiếp theo là một sê -ri 8 tác phẩm sân khấu dầy dặn và hấp dẫn của 2 kịch tác gia trong lực lượng CAND, sân khấu kịch nói CAND đã có một bước tiến khá dài cả về nội dung và hình thức.

Có thể nói 5 vở: “Đám ma hủi”,  “Quả báo”, “Khoảnh khắc mong manh”, “Vòng vây cô đơn”, “Vòng xoáy”của Thiếu tướng nhà văn Hữu Ước và 3 vở “Đối đầu” (hay “Bản danh sách điệp viên 2”), “Tình xưa” và “Quyết định sinh tử” của Đại tá An ninh Phan Gia Liên là những tác phẩm khắc họa một cách sinh động hình tượng của người chiến sĩ Công an trên cả hai trận tuyến giữ gìn trật tự an toàn xã hội và bảo vệ ANQG.

Những vở diễn ấy chẳng những được công chúng và cán bộ chiến sĩ, mến mộ mà còn là mảnh đất nghệ thuật để anh chị em nghệ sĩ trong đoàn thả sức thi thố tài năng.

Bên cạnh gương mặt các nghệ sĩ gạo cội như Trần Nhượng, Đức Thuận, Thế Bình, Công Bẩy, Nguyễn Hải, Ngọc Bích, các diễn viên trẻ Thúy Nga, Hồng Quân, Hồng Tuấn, Hoàng Lan, Hương Thảo, Mỹ Duyên, Hồ Phong, Hoàng Công, Việt Tùng... cũng đã hoá thân vào từng vai diễn, trưởng thành qua từng đêm diễn và lần lượt gặt hái được nhiều thành công cá nhân góp phần xây dựng nên một bảng tổng sắp huy chương của toàn đoàn: 1 giải đặc biệt cho vở “Người là đồng chí”, 2 Huy chương vàng cho 2 vở “Vòng xoáy” và “Cuộc chia tay lần cuối”, 2 giải A Liên hoan sân khấu nhỏ; 10 huy chương vàng, 3 giải tài năng trẻ...

Khi mới ra đời, đoàn NT CAND hoạt động theo 3 loại hình nghệ thuật: nhạc lễ, ca nhạc và kịch nói. Đến năm 1990, do đặc thù công việc, đội nhạc lễ được chuyển sang Tổng cục Cảnh sát, đoàn tập trung xây dựng và phát triển hai loại hình ca nhạc và kịch nói.

Ở tuổi 25 thanh xuân, hôm nay, sân khấu ca nhạc và sân khấu kịch nói CAND đã khẳng định được vị thế của mình với đánh giá chung của giới chuyên môn là: một trong những đoàn nghệ thuật mạnh ở Việt Nam. Còn nói như Thượng tá, Trưởng đoàn Vũ Thắng thì 25 năm qua bằng các hoạt động của mình, đoàn đã thực sự là cầu nối giữa lực lượng CA với nhân dân cả nước, để nhân dân thêm tin yêu thêm hiểu và cảm thông sâu sắc đối với lực lượng CAND.

Thiết nghĩ, để hoàn thành sứ mạng là cầu nối ấy nếu chỉ có tài năng nghệ sĩ chưa đủ mà họ còn phải có một trái tim đầy nhiệt huyết của người chiến sĩ

Nguyễn Xuân Hải
.
.