Doanh nghiệp Việt vào mắt xích của chuỗi cung ứng toàn cầu

Thứ Bảy, 15/11/2025, 07:25

Ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) Việt Nam đang vươn mình mạnh mẽ với gần 7.000 doanh nghiệp (DN). Đã có gần 300 DN đủ năng lực tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của "ông lớn" như Samsung, Toyota, Honda, LG. Không chỉ mở rộng về số lượng, các DN Việt đang khẳng định vị thế bằng chất lượng, công nghệ và khả năng cạnh tranh toàn cầu.

Làm chủ công nghệ

Theo thống kê của Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), Việt Nam hiện có gần 7.000 DN CNHT, tập trung ở năm lĩnh vực trọng điểm: Cơ khí, ô tô, điện - điện tử, dệt may và công nghệ cao. Trong đó, gần 300 DN Việt đã đủ năng lực tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các tập đoàn lớn như Samsung, Honda, Toyota, LG. Đáng chú ý, nhiều DN trong nước đã làm chủ công nghệ sản xuất phức tạp, tạo ra linh kiện, khuôn mẫu và sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao, đánh dấu bước tiến vững chắc của CNHT Việt Nam. Song song với đó, các "đầu tàu" như VinFast hay THACO đang chủ động xây dựng chuỗi sản xuất nội địa, nâng tỷ lệ nội địa hóa lên đến 60-80%, góp phần khẳng định sức bật mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân trong việc định hình nền CNHT Việt Nam ngày càng vững mạnh.

4-1.jpg -0
Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Khẳng định vai trò tiên phong trong lĩnh vực cơ khí - CNHT, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Tập đoàn Trường Hải (THACO) Trần Bá Dương cho biết, Tập đoàn đã xây dựng được nền tảng kép, vừa nghiên cứu - phát triển sản phẩm (R&D), vừa tổ chức sản xuất quy mô lớn, từng bước tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu trong sản xuất cơ khí với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao.

Ông Dương cho biết, tại khu vực phía Nam, các doanh nghiệp FDI đang có nhu cầu lớn về linh kiện, thiết bị máy móc trong nước để tối ưu chi phí sản xuất và logistics. Nắm bắt cơ hội này, THACO sẽ đẩy mạnh đầu tư vào các dự án đường sắt đô thị, đặc biệt là chế tạo toa tàu, cấu kiện thép và thiết bị cơ khí chính xác, mở rộng không gian cho DN Việt tham gia vào chuỗi cung ứng nội địa.

Với đội ngũ kỹ sư giàu kinh nghiệm, năng lực nghiên cứu - phát triển và hợp tác quốc tế mạnh, THACO định hướng chuyển giao công nghệ hợp lý, sản xuất tại chỗ nhằm giảm giá thành và nâng cao tỉ lệ nội địa hóa. DN cũng đặt trọng tâm vào hợp tác theo mô hình cụm công nghiệp, khuyến khích DN nhỏ và vừa tham gia các dự án lớn, từ đó liên kết sản xuất, đặt hàng thép chế tạo đúng tiêu chuẩn, tạo hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ vững mạnh và bền vững.

Trong lĩnh vực ô tô, THACO đã đạt được tỷ lệ nội địa hóa ấn tượng, khẳng định năng lực sản xuất ngày càng làm chủ công nghệ. Hiện xe du lịch của Tập đoàn có tỷ lệ nội địa hóa từ 27-40%, xe tải trên 60% và xe buýt vượt 70%. "Chúng tôi đã tối ưu hóa quy trình sản xuất, giảm đáng kể chi phí, đồng thời đáp ứng được những yêu cầu riêng biệt của từng khách hàng cũng như điều kiện vận hành tại Việt Nam", ông Trần Bá Dương cho hay.

Chủ tịch Công ty TNHH Dụng cụ An Mi (An Mi Tools) Nguyễn Hồng Phong cũng cho hay, từ một DN cơ khí non trẻ giữa làn sóng đầu tư nước ngoài, An Mi Tools đã sớm xác định hướng đi khác biệt: Đầu tư công nghệ, đổi mới để cạnh tranh sòng phẳng. Sau 16 năm phát triển, An Mi Tools đã vươn lên trở thành một trong những đơn vị hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực chế tạo dụng cụ cơ khí chính xác, đóng góp tích cực cho chiến lược phát triển ngành CNHT quốc gia. Với tầm nhìn nhạy bén và chiến lược đúng đắn, An Mi đã khẳng định vị thế bằng sản phẩm dụng cụ cắt gọt và cơ khí chính xác đạt tiêu chuẩn quốc tế, được các tập đoàn lớn như Samsung, Toyota, Honda tin tưởng hợp tác.

DN hiện đã xuất khẩu sang Nhật Bản, Đức, Indonesia và châu Âu, chiếm khoảng 30-35% doanh thu. Sở hữu hệ thống máy móc hiện đại, công nghệ tiên tiến và đội ngũ kỹ sư chuyên nghiệp, An Mi liên tục cải tiến sản phẩm, đáp ứng yêu cầu khắt khe của nhiều ngành: Ô tô - xe máy, điện tử, hàng không, quốc phòng, dầu khí... Năm 2025, An Mi đặt mục tiêu doanh thu 800 - 1.000 tỷ đồng và  năm 2030 đạt 2.000 tỷ đồng. Trong thời gian tới, DN không ngừng nâng cao năng suất và chất lượng để khẳng định vị thế trong ngành CNHT Việt Nam và vươn tầm DN CNHT toàn cầu.

Sau gần hai thập kỷ hình thành và phát triển, ngành CNHT Việt Nam đã có bước tiến dài cả về số lượng lẫn chất lượng DN. Nếu giai đoạn đầu chỉ hơn 100 DN đủ tiêu chuẩn tham gia chuỗi cung ứng, thì nay đã có trên 300 DN vươn lên cung cấp linh kiện, thiết bị cho các tập đoàn FDI và nhiều đơn vị đã có đơn hàng xuất khẩu.

Theo bà Bùi Thị Hồng Hạnh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp CNHT Việt Nam (VASI), các DN Việt ngày càng chủ động thiết kế, kiểm soát chất lượng và hợp tác kỹ thuật trực tiếp với đối tác quốc tế, thay vì chỉ gia công theo đơn đặt hàng như trước. Dù quy mô còn khiêm tốn, song nhiều DN đã làm chủ công nghệ sản xuất linh kiện tinh vi, giá trị cao, khẳng định năng lực hội nhập và vị thế ngày càng vững chắc của CNHT Việt Nam trên bản đồ công nghiệp toàn cầu.

4-2.jpg -0
Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Sẵn sàng đón "đại bàng" FDI

Trao đổi với PV chiều 13/11, ông Nguyễn Vân, Phó Chủ tịch Hiệp hội DN CNHT TP Hà Nội (HANSIBA) cho biết, mục tiêu phát triển 1.000 DN CNHT của Thủ đô đến nay đã cơ bản hoàn thành. Trong số này, khoảng 35% DN đạt tiêu chuẩn quốc tế, sở hữu chứng chỉ ISO trong đầu tư và sản xuất kinh doanh. Đặc biệt, hơn 300 DN đã xây dựng hệ thống sản xuất đạt chuẩn quốc tế, đủ năng lực tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn FDI lớn.

Theo ông Nguyễn Vân, cộng đồng DN Việt Nam đang nỗ lực vươn lên, từng bước tham gia sâu vào chuỗi sản xuất trong nước và quốc tế, hướng tới nội địa hóa và tự chủ công nghệ. Khu Công nghiệp Hỗ trợ Nam Hà Nội (HANSSIP) với hạ tầng đồng bộ, đầy đủ dịch vụ cho người lao động là nền tảng quan trọng thúc đẩy hợp tác quốc tế, đặc biệt với Nhật Bản. Tại đây, Tổ hợp Công nghiệp Việt Nam - Nhật Bản (Techno Park) mở ra cơ hội phát triển sản xuất thiết bị máy bay và kết nối chuỗi cung ứng Việt - Nhật, góp phần nâng tầm năng lực CNHT Việt Nam trên bản đồ toàn cầu.

CNHT Thủ đô dù đã có bước phát triển nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt là thiếu vốn đầu tư, mặt bằng sản xuất và công nghệ hiện đại. Nhiều DN quy mô nhỏ, khó tiếp cận chính sách ưu đãi, tín dụng và chuyển giao công nghệ, khiến khả năng tham gia sâu vào chuỗi cung ứng còn hạn chế. Để CNHT Hà Nội phát triển bền vững, ông Vân cho rằng, cần đồng bộ giữa chính sách và hạ tầng, tập trung xây dựng các khu, cụm CNHT chuyên biệt, hỗ trợ DN đổi mới công nghệ, đào tạo nhân lực chất lượng cao và kết nối với các tập đoàn FDI, DN đầu chuỗi.

Ông Phạm Văn Quân, Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) cho biết, Bộ đang hoàn thiện nhiều chính sách quan trọng, nhằm nâng cao vai trò và vị thế của ngành CNHT.  "Dự thảo Luật Công nghiệp trọng điểm đã đưa CNHT vào một trong 5 nhóm ngành công nghiệp trọng điểm. CNHT không còn là ngành phụ trợ, mà trở thành ngành công nghiệp nền tảng, chiến lược, phục vụ phát triển kinh tế và đáp ứng sát nhu cầu của DN. Chẳng hạn, trong lĩnh vực bán dẫn, trước khi DN nước ngoài đầu tư, các thông số kỹ thuật sẽ được chuẩn bị kỹ lưỡng, giống như "làm ổ" để chào đón các đại bàng", ông Phạm Văn Quân nhấn mạnh.

Lưu Hiệp
.
.