Tâm thức nữ quyền trong thơ Phạm Thị Hồng Thu
Mùa xuân như người phụ nữ đẹp đang bước đến. Hình ảnh người phụ nữ thông qua nhân vật “thị” xuất hiện xuyên suốt tập thơ "Thị à thị ơi" (NXB Hội Nhà văn 2025) của Phạm Thị Hồng Thu vừa có tính độc lập trong từng bài vừa có tính kết nối trong toàn tập như bản trường ca về thân phận người đàn bà trước bộn bề, đa đoan, phức tạp, giông bão cuộc đời.
Một bản trường ca buồn và đẹp được viết bằng tâm thế, góc nhìn, cảm nhận tinh tế, trìu mến, chia sẻ và bao dung. Tiếng nói nữ quyền tự tin tự tại cất lên, làm bệ phóng cho nhà thơ dựng nên những bài thơ khác biệt.

Trăng thánh thót, thánh thót
Tràn lá cây ngọn cỏ mờ mờ tỏ tỏ, mênh mang
Tràn đẫm mắt môi, óng ánh suối tóc dài ngọt mát
Giọt giọt lòng bào xát tiếc nuối, chua chát
Giọt trăng cứ thánh thót
Thánh thót.
Bài thơ về trăng ấn tượng mở đầu tập thơ "Thị à thị ơi". Không phải ánh trăng mà là giọt trăng. Giọt trăng hay giọt lòng “Tràn đẫm mắt môi, óng ánh suối tóc dài ngọt mát”. Giọt trăng như những giọt nước mắt thánh thót báo hiệu sự nổi chìm, ngọt đắng, thăng trầm của kiếp hồng nhan. Và chẳng phải con người hiện tồn xương thịt mà bắt nguồn bằng “Cảm giác là lạ, nhột nhột gáy/ Dưới hiên nhà có ánh mắt cười say” từ thế giới vô hình mang tâm thức hiện sinh “Duyên trời định khéo thay” để cất tiếng nữ quyền.
Duyên trời định hay tự thân con người tìm đến nhau thì cái đích cuối cùng cũng để mưu cầu hạnh phúc. Tuy nhiên, thế gian này cái gì cũng có hai mặt, và song hành với sướng vui hạnh phúc luôn là đau buồn bất hạnh, mà bi kịch có khi bắt nguồn chính từ tiếng sét ái tình: “Họ hớp hồn nhau từ cái nhìn đầu tiên/ Choáng váng điện giật/ Mù quáng thôi miên/ Đời không như là mơ, mắt thấy tai nghe thị vẫn không tin/ Bão giông ngập lối/ Ngậm bồ hòn làm ngọt”.
Không ẩn dụ bóng bẩy như bậc tiền bối lừng danh Hồ Xuân Hương, ý thức nữ quyền trong thơ Phạm Thị Hồng Thu là tiếng nói trực diện. Trực diện trong mơ hồ day dứt. Trực diện trong ngơ ngác đớn đau. Tình yêu đắm đuối làm cho con người mù quáng. Khi bị bão giông bủa vây tứ bề thì đành “Ngậm bồ hòn làm ngọt” trong đau đớn khôn cùng: “Dựng tóc gáy/ Nỗi ớn lạnh ngấm sâu vào tiềm thức/ Thị sợ hắn như người yếu bóng vía sợ ma/ Trở mặt nhanh hơn trở bàn tay/ Khẩu Phật tâm xà/ Niềm tin ngây thơ mù quáng đã vào dĩ vãng”. Để được thức tỉnh thì cái giá phải trả quá lớn. Và rồi có cố “Vùng dậy thoát ra” thì người phụ nữ chưa chắc được an toàn mà lắm lúc lại bị “nuốt chửng” bởi không gian tăm tối thảm họa chờ chực: “Những thế lực vô hình/ Những vòi bạch tuộc/ Thị nghẹt thở, co ro/ Vùng dậy thoát ra/ Không gian bao la nuốt chửng/ Tấm màn nhung đen như mực”.
Bi kịch đời sống hôn nhân của người phụ nữ thực chất đến từ đâu? Câu hỏi này nhà tâm lý học có thể dễ dàng trả lời, nhưng đối với nhà thơ để nhận biết và diễn ngôn trung thực thì chẳng phải ai cũng đủ khả năng thể hiện. Tâm thức nữ quyền giúp nhà thơ soi rọi đến hố đen số phận: “Chờ tăm đợi cá/ Dằng dặc nỗi nhớ thương/ Vòng quay đêm ngày bốn mùa dần nhích/ Vò võ đêm trường/ Côn trùng nỉ nỉ non non/ Cứa tim thị mỏi mòn”.
Không dừng ở đó, nhà thơ Phạm Thị Hồng Thu còn chỉ ra: “Áp lực người nối dõi quất vào đời thị/ Cái nguýt của mẹ chồng băm nát trái tim/ Thị để lại tờ đơn lặng lẽ ra đi”; “Ma men/ Lời thốt ra mật đắng/ Hành động băng hoại”; “Thị biết hắn dấm mẻ/ Về nhà cả vú lấp miệng em”; “Mấy chục năm thị chỉ là vợ trên giấy/ Địa ngục trần gian nếm đủ”. Và cả nỗi đau vì con cái đè nặng trái tim bất lực của người mẹ: “Chờ đỏ cả mắt/ Thị chờ con mòn mỏi/ Nó đi quá lâu, thị cố chờ/ Mặt trời trằn trọc mãi/ Thị cố thở nhọc nhằn thều thào xin lỗi/ Giọt nước mắt nóng hổi, rơi…”.
Giọt nước mắt nóng hổi cũng chính là giọt trăng lặng lẽ trên gương mặt người mẹ bất hạnh. Đau vì con trai sa ngã. Đau vì con dâu hư đốn: “Cô gái hiền lành chân chất/ Ra thành phố bỗng rũ sạch quê nhà” nông nổi chạy theo tiền bạc dục vọng. Và đau vì sự tật nguyền, mất mát của đấng sinh thành:
Đi bên cái chết
Chiến tranh đạn bom khốc liệt, thị khóc ngằn ngặt bên xác mẹ
Thị tật nguyền lớn lên theo đôi quang gánh xiêu vẹo của bà
Bà ra đi lặng lẽ trong ngày nắng đổ
Thị đớn đau bất lực tuyệt vọng
Mầm sống thức tỉnh
Nỗi đau đến từ bên ngoài đã khổ. Nỗi đau gây ra từ chính “thị” càng khổ hơn. Trước hết là cái khổ của cơ thể bề ngoài: “Thị ục ịch như thùng phi di động/ Xấu đã đành, ì ạch bệnh càng tăng”, đến nỗi khổ bên trong tâm hồn vì cả tin, cả nghĩ dẫn tới “Ai nói gì cũng nghe, ai làm gì cũng đúng/ Dễ mủi lòng, sẵn sàng cưu mang giúp đỡ người khác” nên bị lợi dụng, bị lừa lọc và “Chuốc bệnh vào thân”. Nguy hiểm hơn là sự thui chột về tâm hồn: “Say ganh ghét/ Con rắn tị nạnh thường trực trong mao mạch/ Chỉ chực bung ra/ Thị không muốn ai hơn mình, dù là cái móng tay/ Kể cả ruột thịt/ Hả dạ”.
Từ những hiện tượng bên ngoài, tâm thức nữ quyền giúp nhà thơ chiếu rọi cả khuyết tật tâm hồn, cất được tiếng nói thiện lương, mà “Danh vọng và quyền lực” như thứ ma túy gây nghiện hủy hoại nhân phẩm: “Thị khao khát, si mê/ Sức hút quái đản không cưỡng nổi/ Tài mọn, tiền vặt/ Thị gặt hái ước mơ bằng vốn tự có/ Độc”. Lẽ tất nhiên điều ấy đưa con người ta tới đường cùng: “Thị ngập trong bế tắc, tuyệt vọng, không lối thoát/ Ý nghĩ tiêu cực hoành hành”.
Phản ánh mặt trái khuất tất. Không né tránh, không đồng lõa cái ác. Soi thấu kiếp hồng nhan lênh đênh lận đận. Tâm thức nữ quyền còn giúp cảnh tỉnh, mở đường giúp cho người phụ nữ vượt thoát mà tình yêu thương chính là thần dược: “Cứu cánh là tình yêu/ Yêu trời biển trăng hoa, khám phá những miền xa/ Yêu gia đình, bạn bè, đồng loại/ Yêu sâu sắc cuồng nhiệt nàng thơ/ Như khí trời, như cơm ăn nước uống/ Quyện nàng thanh xuân ùa về.”
Cùng với tình yêu con người và thiên nhiên, nhà thơ Phạm Thị Hồng Thu cho thấy thi ca thêm lần “cứu cánh” nhiệm mầu. Không mang lại thức ăn nước uống cho cơ thể nhưng thơ là món ăn tinh thần, điểm tựa vô hình kỳ diệu để vượt lên số phận tìm đến sự an nhiên trong tâm hồn, tự khám phá vẻ đẹp hiện hữu bản thể chính mình mà tạo hóa ban tặng.