Lửa trong lũ và trái tim người giữ bản
(Kính tặng cán bộ và nhân dân xã Tam Thái, tỉnh Nghệ An)
Tôi trở lại Tam Thái sau cơn đại hồng thủy cuối tháng Bảy. Mảnh đất ven sông Lam vừa trải qua một trận lũ dữ dội nhất trong nhiều năm qua - một vết xước lớn hằn lên núi rừng miền Tây Nghệ An. Vẫn là những bản làng thân thuộc: Cây Me, Tân Hợp, Na Tổng, Cánh Tráp, bản Lũng, bản Can... nhưng đâu đó vẫn còn vết bùn in trên nền nhà, còn những tấm lợp rách treo lủng lẳng bên mái hiên và ánh mắt người dân chưa hết bàng hoàng.
“Chưa bao giờ chúng tôi chứng kiến con nước dữ như thế” - ông Lữ Văn May, Bí thư Đảng ủy xã Tam Thái, tay cầm bàn vét, người lấm lem bùn đất bắt đầu câu chuyện như một dòng hồi tưởng còn thảng thốt.
“Từ ngày 21 đến 26/7, lượng mưa trung bình tại địa phương vượt ngưỡng 300mm. Những dòng nước hung hãn từ núi rừng, kết hợp với việc xả lũ từ các hồ chứa như Thủy điện Bản Vẽ, khiến toàn xã rơi vào tình trạng khẩn cấp chưa từng có. Trong chớp mắt, hàng trăm ngôi nhà, hàng chục ha ruộng lúa, cây ăn quả, cây lâm nghiệp; hàng trăm con gia súc, gia cầm, ao cá… bị nhấn chìm, bị cuốn trôi. Những bản làng như Cành Tráp, Cây Me, Tân Hợp… bị cô lập hoàn toàn”.

Lũ rút, hạ tầng tan hoang, tất cả trường học, nhà văn hóa, trạm y tế, đường sá… đều biến dạng, đứt gãy, sạt lở, ken dày bùn đất. Tại thời điểm tôi đến có những nhà mà chủ nhân của nó chưa thể trở về vì trong nhà còn những lớp bùn nhão nhoẹt dày hơn 1 mét, thậm chí 3 mét. “Tổng thiệt hại ước tính 45 tỷ đồng - một con số quá lớn với một xã miền núi mới sáp nhập còn nhiều khó khăn” - ông Lữ Văn May nói mà lòng đầy xót xa.
“Có những đêm không dám ngủ”, anh Lô Dương Khánh - Chủ tịch UBND xã, người gầy đi thấy rõ sau nhiều đêm thức trắng - kể lại.
“Đêm 22/7, khi thủy điện Bản Vẽ bắt đầu xả lũ với lưu lượng lớn, Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai - tìm kiếm cứu nạn xã lập tức phát lệnh sơ tán dân khẩn cấp. Lệnh được đưa ra lúc 22h, với ngưỡng cảnh báo lấy mốc 3 mét so với đỉnh lũ lịch sử năm 2018.
Trong điều kiện trụ sở của xã đặt tại xã Tam Hợp cũ cách tâm lũ 16 km bị cô lập do sạt lở đường, lũ từ các con suối dâng cao, cầu tràn Xốp Nặm, bản Khổi bị ngập sâu không thể lưu thông được, lãnh đạo xã phải chỉ đạo bằng điện thoại, gọi điện trực tiếp, nhắn tin trên nhóm chát Zalo. Không phải ai cũng tin lũ sẽ về. Một số hộ dân cố thủ ở nhà, buộc lực lượng Công an, dân quân tự vệ phải trực tiếp đến cưỡng chế di dời.
Đến 2h sáng 23/7, khi nước bắt đầu dâng mạnh, toàn xã mất liên lạc vì không có sóng điện thoại. Không thể chỉ đạo từ xa, không thể chờ tỉnh hỗ trợ, tất cả cán bộ xã buộc phải hành quân bộ vào vùng nguy hiểm”.
Một ban chỉ huy khẩn cấp được thành lập ngay giữa vùng cô lập. Năm tổ công tác đặc biệt được chia đều: cứu hộ, tiếp tế, hậu cần, tiếp nhận cứu trợ và tổ chỉ huy điều phối. Không có xe chuyên dụng, họ dùng xe kéo, xe công nông, tay cuốc, tay xẻng. Đường lầy, họ bốc từng bao rác bằng tay. Nước ngập, họ lội đi phát cơm, thuốc men. Những con đường bị bùn vùi gần hai mét được xã thuê máy xúc san phẳng để kịp đưa hàng vào cứu trợ các bản Cây Me, Tân Hợp.
Tam Thái vận hành trong lũ không khác gì một đơn vị chiến đấu. Anh Lô Dương Khánh - Chủ tịch xã - là người đầu tiên vác gạo lội lũ vào bản Cành Tráp. Mặt mũi bám bùn, vai trĩu nặng, nhưng tay không rời điện thoại dù không còn sóng. “Tôi sợ bỏ lỡ tin báo quan trọng”. Ông Lữ Văn May - Bí thư Đảng ủy - đích thân cùng nhân dân dọn bùn, gom rác. “Bí thư cũng là người dân, không có lý do gì để đứng nhìn,” ông cười khẽ.
Tôi nhớ mãi ánh mắt anh Vương Trung Úy - Chỉ huy trưởng Tổng đội TNXP 9 Nghệ An - khi cười giữa đống rác ngập đầu gối: “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, nay lũ ngập làng, chẳng ai đứng ngoài.” Hay một Phó Ban chỉ huy quân sự xã như anh Cao Anh Dũng thường trực 24/24 giờ từ ngày 21/7 cho đến khi công việc dọn dẹp sau lũ đi vào ổn định. Cao Anh Dũng luôn có mặt ở điểm khó khăn nhất. Từ điều hành lực lượng dân quân tự vệ đến trực tiếp tuyên truyền, thuyết phục đến hỗ trợ dân di dời khẩn cấp hay vượt lũ, đội mưa đem cơm, đem thực phẩm cho các hộ bị cô lập, rồi gồng mình nạo vét những lớp bùn ken dày lối đi, trường học, nhà ở của dân… Không khẩu hiệu, không bàn giấy, chỉ có tay cuốc, tay xẻng, xe kéo thô sơ và những tấm lòng rắn rỏi. Họ bốc từng bao rác, bới từng đống bùn, đào từng đoạn đường bị vùi lấp để nối lại nhịp sống.

Anh Xồng Bá Nỏ (dân tộc Mông) - Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc xã nhớ lại ngày đầu khắc phục hậu quả sau lũ: Một chủ trương đầy nhân văn được lãnh đạo xã ban hành: “Nhà nào không ngập phải giúp nhà bị ngập. Ai có gì cho nấy. Tất cả toàn dân tham gia khắc phục hậu quả sau lũ”. Chủ trương đó đã được toàn dân hưởng ứng. Những người dân bản Lũng, bản Tân Hợp, Cây Me, Cánh Tráp… dù kiệt sức, vẫn xắn tay cùng nhau nấu cơm, đưa nước, quét dọn, dựng lại nhà cửa cho hàng xóm. Có lẽ chẳng ai quên được hình ảnh anh Lô Trung Đức - một người dân bình thường, khi thấy các lực lượng hỗ trợ dân làm việc thâu đêm dưới mưa, bùn và lạnh, đã tự nguyện nấu cháo cho mọi người suốt những đêm lũ.
Bộ phận hậu cần của xã cũng được kích hoạt khẩn cấp, chia từng nhóm: người nấu, người đóng hộp cơm, người lội nước đưa đến các nhóm cứu hộ, nhóm gom rác thải và các hộ gia đình neo đơn… Có những chị vác bao gạo nặng cả chục ký lội bùn tới bản Lũng, Cành Tráp, Na Tổng… rồi quay về ngay dưới trời mưa trong khi nhà mình cũng đang bị ngập chìm trong lũ. Ông Lô Văn Doạt -trưởng bản Cành Tráp vẫn còn cảm động khi nhớ lại: “Bữa cơm nhận được trong những ngày lũ bủa vây, ăn vừa xúc động, vừa cay mắt. Không phải vì ớt, mà vì ơn”.
Người ta có thể lập hàng trăm phương án phòng, chống lũ, nhưng không có phương án nào bằng niềm tin của dân vào chính quyền và tinh thần tự cứu mình, đó là bài học chống lũ được đúc kết từ xã Tam Thái.
Tam Thái dạy tôi hiểu rằng: chống lũ không chỉ là công việc của ngành chức năng, mà là sự dấn thân của mỗi con người. Bài học ấy nằm trong đôi chân trần lội bùn của cán bộ, trong bàn tay đen nhẻm của bà cụ gùi rau, trong ánh mắt kiên định của Chủ tịch xã khi gào lệnh giữa đêm lũ. Bài học ấy thấm đẫm triết lý của Bác Hồ: dân là gốc, cán bộ là người đầy tớ trung thành. Và chính tinh thần ấy đã giúp một xã nhỏ, nghèo, hiểm trở - đứng dậy vững vàng sau bão dữ. Và tôi gọi Tam Thái những ngày qua là một “ngọn lửa lũ” - nơi mà tình người, bản lĩnh và sự dấn thân của những con người bình dị đã bừng sáng, như những đốm lửa giữa cơn giông bão.
Tam Thái sau lũ, đất trời như được gột rửa. Những con đường lầy lội hôm nào giờ đã sạch sẽ, rộn ràng tiếng chổi tre, tiếng xẻng dọn bùn và cả tiếng cười nhẹ tênh của những cô gái bản đang phơi áo quần dưới nắng mới. Những đứa trẻ thả sức nô đùa trên nền sân trường đã khô, nhặt từng chiếc lá rơi, hồn nhiên như chưa từng biết đến những đêm trắng chập chờn tiếng nước gào bên khe suối. Người già thì thong thả trở lại với nhịp sống quen, ngồi bên hiên nhà nhâm nhi chén nước chè xanh, ánh mắt xa xăm, đôi lúc lại nghèn nghẹn nhìn xuống dòng Lam đã hiền hòa chảy giữa đôi bờ xanh thắm.
Mùa thu đang tới, và Tam Thái - sau lũ - lại xanh ngời hy vọng.