Anh hùng Trần Văn Năm và ký ức hào hùng nơi chiến trường Đông Nam Bộ
Tháng 8/2012, tôi may mắn khi lần đầu tiên được gặp Đại tá Trần Văn Năm (tức Năm Gấu) - Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên cán bộ Đoàn 180 An ninh vũ trang miền Nam (đơn vị tiền thân của Phòng Cảnh vệ miền Nam, Bộ Tư lệnh Cảnh vệ ngày nay) tại căn cứ Trung ương Cục miền Nam.
Bảo vệ an toàn căn cứ Trung ương Cục miền Nam
Không giống với hình dung của tôi trước đó về ông, Đại tá, anh hùng Trần Văn Năm trước mắt tôi đúng chất là một lão nông chi điền điển hình của vùng miền Tây Nam Bộ với nước da nâu, thân hình rắn rỏi, cử chỉ, hành động nhanh nhẹn, hoạt bát; trán cao, mắt sáng, miệng lúc nào cũng cười tươi và say sưa kể khi ai đó hỏi về những trận đánh mà ông từng trực tiếp tham gia.

Sinh năm 1947, ở ấp Tân Phong, xã Tân Hội, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang) trong một gia đình bần nông, ngay từ nhỏ, nhiều lần chứng kiến cảnh địch vào ấp hò nhau bắt gà, vịt của dân; bắt tất cả những ai mà chúng nghi là Việt Cộng, cậu bé Trần Văn Năm không khỏi căm giận. 15 tuổi, Năm được cán bộ cách mạng ở địa phương giác ngộ, giúp đỡ tham gia du kích.
Tháng 4/1964, chàng thanh niên Trần Văn Năm chính thức nhập ngũ lực lượng An ninh vũ trang bảo vệ Trung ương Cục miền Nam, sau đổi tên thành Đoàn 180 An ninh vũ trang miền Nam - đơn vị có nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu, canh gác, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo và căn cứ Trung ương Cục miền Nam. Những năm tháng khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh, Trung đội Trinh sát B5, Đoàn 180 thực sự là “Lá chắn thép” bảo vệ tuyệt đối an ninh, an toàn căn cứ Trung ương Cục và các đồng chí lãnh đạo.
11 năm tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Trần Văn Năm trực tiếp tham gia 45 trận đánh lớn nhỏ tại các khu vực Trảng Hàng Gòn, Trảng Sến, Trảng Tranh, căn cứ Thiện Ngôn, Tà Nốt, Tà Âm, Trảng Bò, Bầu Lùng Tung, Tà Beng Long Cà Rết...), được tặng thưởng nhiều danh hiệu: Dũng sĩ quyết thắng; Dũng sĩ diệt xe cơ giới cấp 2, Chiến sĩ ấp Bắc... Nhiều trận đánh quân ta đã chiến thắng oanh liệt trong thế trận hoàn toàn không cân sức, đập tan ý đồ tiêu diệt cơ quan đầu não cách mạng Miền Nam của đế quốc Mỹ, bảo vệ tuyệt đối an toàn căn cứ và các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục, trong đó có nhiều trận, Trần Văn Năm và đồng đội đã lập nên kỳ tích đặc biệt xuất sắc.
Sau cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất (1965-1966) thất bại, lần đầu tiên quân viễn chinh Mỹ nếm vị đắng tổn thất nặng nề trên chiến trường. Để thay đổi cục diện chiến tranh, mùa khô lần thứ hai (1966-1967), đế quốc Mỹ mở trận càn Jantion City, huy động nhiều lực lượng cùng khối lượng lớn phương tiện, vũ khí hiện đại đánh vào căn cứ Dương Minh Châu, Bắc Tây Ninh hòng triệt phá căn cứ kháng chiến, tiêu diệt cơ quan đầu não Trung ương Cục và các đơn vị quân chủ lực giải phóng miền Nam với tham vọng: Phá hủy căn cứ kháng chiến lớn của quân và dân ta ở Bắc Tây Ninh; tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến; giành một thắng lợi quân sự có ý nghĩa quyết định, tạo ra bước ngoặt làm chuyển biến cục diện chung có lợi cho Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Tháng 3/1967, nhận công tác tại B5, Trinh sát Đoàn 180, Trần Văn Năm khi đó là tiểu đội phó đã cùng tiểu đội chiến đấu anh dũng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tiêu diệt 1 xe tăng M141, 3 xe tăng M118, bắn rơi 1 máy bay trực thăng HU1A tại Trảng Hàng Gòn (nay là xã Tân Lập, Tân Biên, Tây Ninh). “Với nhiệm vụ vừa trinh sát, vừa đánh địch, phát hiện địch đang dàn trận, bố trí lực lượng, bao gồm xe tăng, trực thăng chỉ huy trận càn, tôi được phân công tiêu diệt bộ binh, còn anh em đánh xe tăng và máy bay. Trong trận này tôi được tặng danh hiệu “Dũng sĩ quyết thắng” cấp 3 (diệt Mỹ) và 1 giấy khen”, anh hùng Trần Văn Năm nhớ lại.
Những trận đánh không quên
Khi được hỏi về kinh nghiệm chiến đấu, anh hùng Trần Văn Năm chia sẻ: “Sau nhiều năm trực tiếp làm công tác trinh sát, chiến đấu, tôi nhận thấy: Mỹ - ngụy cậy hỏa lực, bom đạn là chính, nếu đánh xa nó là mình hy sinh. Vì vậy, để giành ưu thế, buộc ta phải đánh thật gần, đánh giáp lá cà, thậm chí đánh ở những nơi đối phương không ngờ tới. Bởi vậy mà mấy lần bị địch phục kích nhưng chúng có bắt được chúng tôi đâu”.
Kinh nghiệm cụ thể trong cuộc tập kích vào bốt Thiện Ngôn đêm 25/6/1967. Rồi, ông kể vụ tập kích bốt Thiện Ngôn: “Trong quá trình trinh sát nắm tình hình, tôi nhận thấy kẻ địch thường tập hợp hành quân hằng ngày vào lúc 5h sáng. Đêm 25/6/1967, với đội hình 7 người, 5 người yểm trợ phía sau. Tôi và 1 đồng chí vượt qua 2 bàu nước lớn, trực tiếp ôm mìn DH10 và 3m dây, chui qua rào kẽm gai của sân bay Thiện Ngôn (nay thuộc xã Tân Lập, Tân Biên, Tây Ninh), tiếp cận vị trí địch thường tập hợp và đặt mìn, khi đó khoảng 4h sáng.
Sau khi hoàn tất, hai chúng tôi bò ra ngoài hàng rào kẽm gai để chờ địch, khoảng 5h15, địch tập hợp, thời cơ đã đến, tôi quyết định châm ngòi cho mìn nổ, địch chạy tán loạn và đánh trả theo hướng bìa rừng phía sau tôi. Chúng không ngờ chúng tôi vẫn nằm sát ngay chân chúng. Chúng bắn trả xối xả mà không thấy quân ta ở đâu. Khi chúng ngừng bắn, chúng tôi bình tĩnh bò dưới nước, vừa quấn dây, vừa rút quân an toàn. Trong trận này, tôi được tặng danh hiệu “Dũng sĩ quyết thắng cấp 3”, Đại tá Năm kể.
“Không chỉ mưu trí, dũng cảm, với độ “lỳ” không ai bằng, Trần Văn Năm luôn chủ động đề xuất với cấp trên nhiều cách đánh táo bạo, sáng tạo”. Một điều khá thú vị khi tìm hiểu về anh hùng Trần Văn Năm là mặc dù luôn chủ động đề xuất các kế hoạch, phương án đánh táo bạo, mạo hiểm; trực tiếp xung phong chiến đấu ở những vị trí nguy hiểm nhất, nhưng bom, đạn, pháo của Mỹ - ngụy “ít có cơ hội hỏi thăm” ông. Bên cạnh đó, ông còn có biệt tài leo cây nhanh như gấu, cây cao đến mấy cũng trèo được. Biệt tài này đã giúp ông rất nhiều trong công tác trinh sát. Bởi vậy, năm 1967, khi viết về gương chiến đấu dũng cảm của chiến sĩ trinh sát B5, Đoàn 180 Trần Văn Năm, một nữ nhà báo đã đặt cho ông biệt danh “Năm Gấu”. Kể từ đó, biệt danh Năm Gấu nổi tiếng khắp Đoàn 180 và theo ông đến tận bây giờ.
Sáng 3/5/1968, từ bốt Thiện Ngôn, một đại đội địch bung ra cắt rừng về cứ Trung ương Cục để đánh phá, là tiểu đội trưởng, Trần Văn Năm chỉ huy tiểu đội cùng đội hình trung đội bám địch đến Trảng Chàm - Bầu Lùng Tung địch đồn trú. Ta nổ súng, hai bên giằng co quyết liệt. Mặc dù bị thương ở chân phải, vết thương ra nhiều máu, đau đớn, nhưng Trần Văn Năm quyết không rời vị trí chỉ huy, ở lại cùng đồng đội chiến đấu đến cùng, tiêu diệt địch, bảo vệ tuyệt đối an toàn căn cứ. “Mình là tiểu đội trưởng, trực tiếp chỉ huy tiểu đội, mặc dù chân bị thương nhưng tay vẫn bắn được. Vì vậy mà ráng chịu đau để ở lại cùng đồng đội chiến đấu đến cùng”, anh hùng Trần Văn Năm khảng khái nói, cười tươi đầy tự hào.

Trời đã gần sáng, mặc cho muỗi rừng đốt sưng chân, mặc cho những giọt sương trên tán rừng nhỏ xuống ướt vai những chiến sĩ trẻ chúng tôi, thấm lạnh, nhưng những câu chuyện sinh động, chân thực qua lời kể của anh hùng Trần Văn Năm dường như vẫn chưa có hồi kết. Chúng tôi vẫn đắm chìm trong hồi tưởng, hình dung tiếng bom rơi, đạn nổ, tiếng máy bay địch gầm rú, hình dung những chiến binh Đoàn 180 An ninh vũ trang miền Nam dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù vẫn hừng hực khí thế xông lên, chiến đấu ngoan cường để bảo vệ Trung ương Cục và các đồng chí lãnh đạo... Và, tôi hiểu rằng, chính sự khắc nghiệt của cuộc chiến đó đã tôi luyện nên bản lĩnh, trí tuệ của ông và đồng đội, tạo nên một thế hệ cán bộ, chiến sĩ cảnh vệ kiên trung, mạnh mẽ, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp “bảo vệ Đảng, bảo vệ lãnh tụ”...
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, riêng Đoàn 180 An ninh vũ trang miền Nam đã có trên 500 cán bộ, chiến sĩ anh dũng hy sinh, hiến dâng cả tuổi thanh xuân vì sự nghiệp “bảo vệ Đảng, bảo vệ lãnh tụ”. Từ năm 1993 đến năm 2002, anh hùng Trần Văn Năm đã cùng Bộ Tư lệnh Biên phòng và Bộ Tư lệnh Cảnh vệ quy tập được 441 liệt sĩ đưa về an táng tại đồi 82 - khu vực Ban An ninh.
Khuôn mặt trở nên trầm tư, giọng anh hùng Năm Gấu chùng xuống: “Hơn 8 chục liệt sĩ của Đoàn 180 An ninh vũ trang miền Nam còn nằm đâu đó”. Và rồi, từ khóe mắt già nua của người cựu lính trinh sát nổi danh một thời, hai giọt nước mắt “nhọc nhằn” lăn trên gò má. Nó như nỗi niềm day dứt khôn nguôi của ông mỗi khi trở lại chiến trường xưa.