Tiểu thuyết Việt Nam đương đại: Sự mặc cảm “nhà quê”

Thứ Bảy, 10/03/2018, 08:01
Cách đây mấy năm, vô tình tôi bắt gặp một cây bút nữ đang ký vào cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình tặng một nhà lý luận - phê bình. Ông này cầm cuốn tiểu thuyết lên ngắm nghía, lật mở nhìn lướt một số trang, rồi phán: “Thời này là thời nào rồi mà chị còn viết kể lể, chấm xuống dòng gạch đầu dòng, ngoặc đơn ngoặc kép thế này?”. Cây bút nữ đang chập chững bước vào văn chương nên không dám cãi.


Nhà phê bình liền lên lớp cho chị, rằng tiểu thuyết Việt Nam sinh sau đẻ muộn, so với văn chương thế giới, tiểu thuyết của chúng ta chỉ giống như một đứa trẻ nhà quê gầy còm, ngô nghê. Sứ mệnh của những nhà tiểu thuyết đương đại là phải nhanh chóng làm cho đứa trẻ ấy lớn lên, trưởng thành, trở thành một người có vóc dáng, có tri thức hẳn hoi.

“Không còn con đường nào khác là phải đổi mới! Hãy viết như những nền văn chương tiên tiến nhất của nhân loại” - nhà phê bình nói tiếp. Rồi ông giảng cho nữ nhà văn thế nào là tiểu thuyết không cốt truyện, tiểu thuyết dòng ý thức, tiểu thuyết phản tỉnh, tiểu thuyết sám hối, tiểu thuyết giải thiêng, tiểu thuyết huyền ảo… Tóm lại, gọi chung bằng cái tên tiểu thuyết "Hậu Hiện Đại"!

Tôi biết, các loại tiểu thuyết mà nhà phê bình đang nói đến xuất hiện chủ yếu ở châu Âu từ nửa đầu thế kỷ hai mươi. Sự xuất hiện của nó là có căn nguyên xã hội: chỉ trong vòng hơn hai thập kỷ, loài người phải hứng chịu hai cuộc chiến tranh thế giới khủng khiếp mà tâm điểm của vòng xoáy là châu Âu. Sự phi nhân tính lên ngôi.

Con người bị đối xử tàn bạo, bị giết hại một cách man rợ. Con người mất niềm tin vào con người, đổ vỡ lý tưởng. Con người cô đơn ngay giữa đồng loại. Hiện thực này cộng hưởng với đặc tính luôn luôn có khuynh hướng đổi mới của văn học; nhận thấy một mình nền văn chương hiện đại (mang tính thừa kế nền văn học cổ điển) không còn đủ sức chuyển tải những thông điệp đa diện, đa chiều, đa thanh của cuộc sống nữa nên dòng văn học Hiện sinh – Phi lý đã ra đời; rồi một số dòng văn học khác (như đã kể trên)  đua nhau xuất hiện.

Từ châu Âu nó lan sang các châu lục khác. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, rất nhiều nhà văn ở châu Âu, châu Mỹ - La tinh, Nhật Bản, Trung Quốc… đã sáng tác bằng các dòng văn học này, đến nay nó không còn mới mẻ nữa, nhưng một số nhà văn Việt Nam vẫn rất ngưỡng mộ. Sự ngưỡng mộ muộn mằn này không hề có lỗi bởi cũng có căn nguyên xã hội: chúng ta mới thoát ra từ hai cuộc chiến tranh khốc liệt, bước vào công nghiệp hóa – đô thị hóa với rất nhiều thành công và hệ lụy.

Đây là lần thứ 2 hội thảo “Đổi mới tư duy tiểu thuyết” được Hội nhà văn Việt Nam tổ chức, thu hút đông đảo các nhà văn tham dự. 

Con người được ăn sung mặc sướng, xe cộ, ti vi, tủ lạnh đầy nhà, nhưng cuộc sống lại bị đe dọa từ nhiều phía: ô nhiễm môi trường, đạo đức xuống cấp, tình người khô cạn, tư tưởng sống gấp xuất hiện ở mọi tầng lớp, lứa tuổi… Nếu như văn học Việt Nam có hình thành một trường phái hậu hiện đại muộn hơn phương Tây vài chục năm thì cũng không có gì lạ, vấn đề là ở chỗ nó thừa kế phương Tây thế nào, nó bắt chước, dập khuôn hay có những phát kiến mới mẻ, nó đánh thức nhân tính, chắp cánh cho con người hay hủy hoại nhân tính, dẫn dắt con người đi đến ngõ cụt?

Theo tôi, một nền văn học giống như một khu vườn nhiều loài hoa trái, mỗi cây mang một dáng vẻ, hồn cốt khác nhau nhưng bổ sung cho nhau, tôn vinh nhau làm nên sự đa dạng, phong phú, tráng lệ. Một nền văn học mà chấp nhận nhiều trường phái, đa phong cách, mỗi trường phái, mỗi phong cách đều được phát triển lên tầm cao, đẩy đến tận cùng sáng tạo, đó mới là nền văn học lành mạnh, khỏe khoắn, trưởng thành (đương nhiên, chúng ta chỉ không bao giờ chấp nhận trường phái vong bản, chống lại Tổ quốc, nhân dân, làm phương hại thuần phong mỹ tục của con người Việt Nam).

Anh khư khư bảo vệ tôn vinh một trường phái, không chấp nhận sự khác mình thì vô tình anh đã cổ súy cho các nhà văn đi theo mình viết giống nhau. Hèn nào những sinh viên từng là học trò của nhà phê bình nọ viết cứ hao hao giống nhau. Những trang văn của họ, dù trần thuật hay mô tả, đối thoại hay độc thoại cứ tuôn chảy đều đều trên trang giấy, có khi câu này không ăn nhập với câu kia, rời rạc, ông chằng bà chuộc.

Cố đọc cho hết thì vỡ nhẽ: những tác phẩm ấy chẳng có hàm chứa tư tưởng gì mệnh hệ, lớn lao; chẳng mang thông điệp gì mới mẻ, hữu ích với con người; chỉ thấy những triết ký vụn vặt, ngạo mạn vô lối, tình dục nhàm chán...

Một số người khi viết còn mượn cả ý tưởng, kết cấu, tình tiết, thậm chí sao chép câu văn trong tác phẩm của Tây rồi đánh bóng mạ kền cho đỡ mang tiếng là kẻ đạo văn.

Không chỉ các cây bút trẻ, một số nhà văn đã thành danh cũng bị cuốn vào không khí ngưỡng vọng văn chương hậu hiện đại phương Tây. Có những vị ngồi ghế hội đồng nọ kia hẳn hoi, vậy mà cứ đọc thấy tác phẩm mà văn phong thuần Việt là thờ ơ, ghẻ lạnh, liền gạt sang một bên; thấy tác phẩm văn Tây Tây là vồ lấy khen rối rít. Thậm chí có tác phẩm dùng loại văn lấp lửng nửa mỡ nửa nạc bắt chước văn “hậu hiện đại” phương Tây để  xuyên tạc lịch sử, ca ngợi kẻ theo giặc, phản dân hại nước, các vị hội đồng này vẫn bảo vệ bằng cách khen văn hay, viết giỏi!

Để tránh bị tai tiếng là kẻ bài xích văn học hậu hiện đại phương Tây nên tôi thấy cần mạn phép tiết lộ chút xíu rằng: các bậc tổ sư của văn học hậu hiện đại phương Tây như Fyodor Mikhaylovich Dostoyevsky, Fran Kafka, Marcel Proust, Gabriel Garcia Marquez , Jean Paul Sartre, Albert Camus… tôi đều có đọc mỗi tác giả một vài cuốn, đủ để tôi yêu thích, ngưỡng mộ họ thực sự chứ không nản lòng như khi đọc một số nhà văn hậu hiện đại của ta.

Bấy nay quan sát cuộc sống, tôi chiêm nghiệm một điều rằng, phàm con người ta thiếu cái gì thì luôn khao khát có cái đó. Những nhà văn đang ngưỡng vọng văn học hậu hiện đại phương Tây quá mức lại chính là những người ít kiến văn về văn học phương Tây nhất. Ngày xưa, ông Vũ Trọng Phụng, ông Nam Cao đích thị là dân Tây học; tiếng Pháp đủ để hai ông giao dịch với người Tây, tác phẩm của nhiều đại văn hào phương Tây không hề xa lạ với hai ông, nhưng khi viết hai ông chẳng để lại tí dấu vết phương Tây nào trong tác phẩm.

Mỗi người một phong cách, không thể lẫn với nhau, nhưng văn chương của hai ông đều thuần Việt. Những điều hai ông đặt ra trong tác phẩm là những vấn đề mang tính cốt tử, hưng vong của xứ xở, non sông Việt. Nhân vật của hai ông là người Việt, mang cốt  cách Việt. Không những thế, nhà văn Vũ Trọng Phụng còn công khai công kích, chế nhạo cái bọn rởm đời vị Tây, học mót Tây một cách sống sít, trơ trẽn như Xuân Tóc đỏ, Phó Đoan, Typn...

Nhật Bản là một quốc gia học phương Tây rất toàn diện, kể từ khi Minh Trị Thiên Hoàng phát động công cuộc canh tân đất nước. Thậm chí người Nhật còn phát động một công cuộc Thoát Trung, nghĩa là thoát khỏi cái nguồn cội văn hóa Trung Hoa từng chi phối văn hóa Nhật hàng ngàn năm, để học phương Tây một cách quả cảm hơn, rốt ráo hơn, triệt để hơn. Nhưng càng học Tây thì người Nhật lại càng biết làm giàu có hơn cái bản sắc dân tộc mình.

Trong văn chương, so với những nhà văn cùng thời, còn ai học phương Tây một cách nghiêm cẩn, trọng thị  hơn Kawabata Yasunari? Ông đọc và ngưỡng mộ rất nhiều văn hào của phương Tây, nhưng bạn hãy đọc các tiểu thuyết "Tiếng rền của núi", "Xứ Tuyết", "Ngàn cánh hạc", "Người đẹp say ngủ"… của ông thì chẳng thấy dấu vết phương Tây đâu cả.

Kawabata được trao giải Nobel (1968) bởi những tác phẩm của ông mang bản sắc tuyệt mỹ Nhật Bản, như Diễn văn của Viện Hàn lâm Thụy Điển đọc trong lễ trao giải: "Ông là người tôn vinh cái đẹp hư ảo và hình ảnh u uẩn của hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và trong định mệnh con người…”.

Xã hội Việt Nam hơn ba thập niên qua đã mở cửa, hòa nhập ngày càng sâu rộng với thế giới. Chưa bao giờ con người Việt Nam được tự do bộc lộ cái tôi như bây giờ. Cái đẹp đẽ cũng được thể hiện hết tầm; cái xấu xa cũng được phơi bày hết cỡ. Có cả cái tốt nằm trong cái xấu; cái xấu đan cài với cái tốt. Mọi cung bậc tham, sân si, ái, ố, hỷ, nộ… đều được bung phá mạnh mẽ.

Cuộc sống phồn tạp sinh ra, hình thành nhiều dạng nhân vật rất góc cạnh, mới mẻ cho tiểu thuyết khám phá. Rất nhiều giá trị nhân văn, nhân bản mang sắc thái của thời kinh tế “Bốn chấm không” đang cần tiểu thuyết khái quát. Đề tài lịch sử Việt Nam, do những đặc thù riêng mà nhiều vấn đề hãy còn khuất lấp, cũng đang rất cần sự khám phá, sáng tạo của nhà tiểu thuyết.

Vấn đề còn lại là ở người viết. Nếu nhà văn có cái nhìn thật khách quan, biện chứng; có cái tâm thật trong sáng với đất nước và con người Việt Nam, có tình yêu mãnh liệt với quê hương xứ sở, tôi nghĩ sẽ sáng tạo ra những tiểu thuyết hay và lớn chứ chẳng cần phải vay mượn ở đâu cả. Khi nội dung đã hay thì tự nó cuốn hút người đọc dù hình thức của nó là cổ điển, hiện đại hay hậu hiện đại.

Lê Hoài Nam
.
.