Thân nơi phố thị, hồn neo chốn làng

Thứ Sáu, 21/04/2017, 08:44
Đọc tập thơ “Buồn không đóng cửa” của Nguyễn Việt Bắc, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2016.


Khác với nhiều bạn sáng tác, họ có thể viết nhiều thể loại: làm thơ, bình thơ, viết truyện ngắn hoặc đá tí chút phê bình, kiến trúc sư Nguyễn Việt Bắc không làm bất cứ điều gì khác ngoài thơ. Anh chỉ chuyên chú làm thơ. Tính từ năm 1993 in tập “Bờ xa”, đến nay 2016, anh đã in tập thứ 6 “Buồn không đóng cửa”. Nghĩa là cứ khoảng gần bốn năm in một tập.

Người kiến trúc sư quê Bắc Ninh ấy sau khi ra trường, do yêu cầu của công việc đã gắn bó với phố thị. Tuy nhiên, làng vẫn còn lưu giữ ngôi nhà của tổ tiên làm nơi chốn đi về. Không giống với những người “thiên quê”, rồi mất luôn “hộ khẩu”, trở thành người thành phố, nhà thơ ở phố mà hồn vẫn neo lại chốn quê.

Trong các tập thơ của anh, cái làng nông nghiệp “Từ xưa/ Làng chỉ nghề cấy lúa” vẫn luôn hiện lên với bao buồn vui, băn khoăn, lo lắng. Cái việc làm thơ, thu hoạch chữ nghĩa, anh cũng ví với việc gặt hái của làng. Và anh đem việc đó đặt tên cho một tập thơ “Gặt chữ”!

Bìa cuốn “Buồn không đóng cửa”.

Làng - đơn vị hành chính thiêng liêng đó rất quan trọng trong tâm thức người Việt. Làng là quê, là nơi sinh trưởng, là nơi gắn bó ấu thơ, là nơi bảo tồn, lưu giữ kỉ niệm, lưu giữ những kí ức thiêng liêng. Những năm trước, làng trong thơ anh là hình ảnh đẹp đẽ, lung linh của những năm tháng bình yên, chưa có chuyện phố lấn làng: “Nhà ta/ Ta về nhà ta/ Có đầm sen với cây đa đầu làng/ Có em quẩy nắng dịu dàng/ Mùa thơm/ Nắng chín rơm vàng ngõ phơi” (trong tập “Gặt chữ”).

Bây giờ, anh nhìn làng bằng tâm trạng khác và con mắt cũng khác. Bởi vì làng bây giờ đang trong cơn lốc của đô thị hóa: “Bây giờ nhan nhản công ty/ Ruộng đất cứ dần hẹp lại”, làng đang biến thành phố: “Gi gỉ gì gi cái gì cũng có”. Vẫn còn một chút xưa, ấy là “Khí trong veo như mưa rào đầu hạ/ Tiếng gà ò ó o”, nhưng làng đã không còn là làng cũ:

Làng vẫn làng mà như đi lạc
Tre không còn để mà kẽo kẹt
Nhà ống liền kề
Đường lổn nhổn xỉ than bê tông
Thoang thoảng mùi phân trâu, cứt chó

(Làng vẫn làng mà như đi lạc)

Không còn nắng chín với mùa thơm. Cũng không thấy em quẩy nắng. Bây giờ là hình ảnh “sương đêm ràn rạt bay”, là hình ảnh “Mưa lầy lõm bõm/ Những ngôi nhà phành phạch cửa liếp/ Im lìm/ Ánh sáng đường làng nhòe nhoẹt” (Làng).  Rặng tre như là biểu tượng của làng, quây lấy làng, đem bóng mát che ngày nóng nực giờ không còn. Hậu quả là: “Đào tre lấp ao làm nhà/ Làng phơi dưới nắng như là lò nung” (Dậy trước bình minh)

Làng đang biến thành phố. Tiến bộ đấy, nhưng làng đâu còn là làng nữa? Về mặt tâm linh thì khá bất an: “Phố đóng cọc xây nhà trên ruộng lúa/ Vỡ long mạch làng/ làng mảnh vỡ/ của hành tinh” (Mảnh vỡ).

Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lấy tên bài thơ cuối tập đặt tên cho cả tập “Buồn không đóng cửa”. Có một cái gì đó như bế tắc, tuyệt vọng: “Chán phố xá/ Về làng quê/ Làng quê cũng chán ra đê sông Hồng” (Không đề).

Ra với thiên nhiên cũng không khỏa lấp được nỗi buồn:

Buồn không đóng cửa cài then
Ra ngồi với cỏ bông sen cũng buồn

(Buồn không đóng cửa)

Làm thơ ư? “Thơ in ra không biết tặng ai”. Mấy nhà thơ có sáng kiến lập ra “Quầy bán và đốt” nhưng chủ yếu là “Đốt thơ người thuê đốt” vì thơ tặng còn không có người nhận thì bán cho ai! (Quầy bán và đốt).

Cái buồn không chỉ lấn át cái vui như trước đây mà phải nói là cả tập thơ đều bao phủ bởi một tâm trạng buồn. Dù cho cũng có một vài nét vui ở những hồi ức về  một “thời trong trẻo”, một mối tình xưa, hay nghe tiếng đàn dương cầm, hoặc chơi với cháu…

Có thể lí giải nỗi buồn này từ nỗi buồn lớn của đất nước “Tây Nguyên khát nước/ Chuồn chuồn kêu mưa/ Rừng vàng ngày một dần thưa/ Thảm họa Vũng Áng mới vừa chưa qua/  […] gió bão đổ nhà/ Máy bay mất tích không nhà người thân” (Buồn không đóng cửa). Và cũng là nỗi buồn riêng khi tuổi cao, sức khỏe sa sút, bạn bè ngày một dần thưa vắng.

Chưa bao giờ Nguyễn Việt Bắc tuyên ngôn coi nỗi buồn là gia tài, nỗi buồn là báu vật. Nhưng cái buồn cứ tự nhiên mà thấm vào cách nhìn, cách cảm, cách thể hiện. Anh coi thơ ca là tài sản của mình, là những chữ nghĩa gặt được như nông dân thu hoạch thóc vàng “ròng ròng mồ hôi”.

Thơ với anh là nỗi niềm trao gửi. Nguyễn Việt Bắc đằm sâu trong cảm xúc, cô đọng trong chữ nghĩa, lặng thầm chia sẻ với bạn đọc về những chiêm nghiệm cuộc đời của mình. Cụ Nguyễn Du từng viết “Tẻ vui bởi tại lòng này”. Cái buồn tự đáy lòng, cái buồn tích tụ từ âm thầm cuộc sống “ngày ngày tôi lặng im” để rồi lên tiếng ở trong thơ, gửi trao cùng bạn đọc. Tôi nghĩ cái buồn đó cần thiết để chúng ta thanh lọc tâm hồn, giữ cho tâm an, lòng sáng.

Vũ Nho
.
.