Tranh Đông Hồ sẽ trở thành di sản của nhân loại?

Thứ Năm, 08/08/2019, 08:48
Ngày 31-7 vừa qua, tại Trung tâm giao lưu văn hóa phố cổ Hà Nội đã diễn ra buổi ra mắt cuốn sách “Dòng tranh dân gian Đông Hồ” của nhóm tác giả Nguyễn Thị Thu Hòa (chủ biên) - Trịnh Sinh - Lê Bích.


Sự kiện này gây sự chú ý với công luận, bởi theo lộ trình đã được phê duyệt, đến tháng 12-2019, hồ sơ trình UNESCO công nhận dòng tranh dân gian Đông Hồ là “Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp” sẽ được trình ra Hội đồng di sản quốc gia thẩm định, xét duyệt trước khi hoàn thiện và trình lên Thủ tướng Chính phủ...

Tự hào với “Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”

“Dòng tranh dân gian Đông Hồ” là cuốn sách thứ 2 thuộc Dự án khôi phục tranh dân gian Việt Nam ra mắt công chúng sau cuốn “Dòng tranh dân gian Kim Hoàng” (ra mắt tháng 1-2019). Dự án khôi phục tranh dân gian Việt Nam do nhà sưu tập Nguyễn Thị Thu Hòa - Giám đốc Bảo tàng gốm sứ Hà Nội khởi xướng và làm chủ dự án.

Trong những năm qua, dự án đã nhận được sự cổ vũ, hưởng ứng tích cực từ các nhà nghiên cứu văn hóa - lịch sử - mỹ thuật, nghệ nhân, nhà sưu tập, họa sĩ cũng như công chúng yêu mến những giá trị truyền thống của dân tộc qua tranh dân gian.

Sau khi trở thành “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia”, tranh Đông Hồ có khả năng sẽ trở thành “Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp”.

Theo chia sẻ của nhóm tác giả, “Dòng tranh dân gian Đông Hồ” là cuốn sách được thực hiện công phu, chứa đựng rất nhiều tâm huyết, tình yêu của các tác giả đối với những giá trị mang “màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”.

Từ quá trình nghiên cứu - điền dã, đến ngày có cuốn sách ra mắt bạn đọc, nhóm tác giả đã phải mất đến 10 năm. Trong cuốn sách có tới hơn 500 hình ảnh (đa số được chụp mới), mô tả khá chi tiết về làng Đông Hồ, các bước làm tranh, các bức tranh Đông Hồ nổi tiếng và cả những bức tranh Đông Hồ ít được du khách biết tới.

Cuốn sách cũng khắc họa chân dung những nghệ nhân tiêu biểu và 3 dòng họ hiện còn gắn bó với nghề thủ công đặc biệt của cha ông truyền lại (có niên đại lên tới 400 năm). Bên cạnh đó, là sự chuyển biến - phái sinh - ứng dụng của tranh Đông Hồ trong đời sống hiện đại cũng được các tác giả nghiên cứu và khắc họa rõ nét.

Nếu ai đã một lần ghé thăm làng Đông Hồ (xã Song Hồ - huyện Thuận Thành - Bắc Ninh) sẽ phần nào cảm nhận được vẻ đẹp trữ tình, nên thơ của một làng quê Bắc Bộ. Các cụ trong làng kể lại, xưa kia làng Đông Hồ nằm sát mép bờ sông Đuống, đến những năm đầu thế kỷ XX, làng mới rời vào phía trong đê và rời theo cả ngôi đình làng vào địa thế cao ráo hơn để tránh ngập lụt.

Theo các nhà nghiên cứu, tranh Đông Hồ vừa là phương tiện để người dân miêu tả cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của mình, vừa là để thể hiện đời sống tín ngưỡng, cách thức để họ giao cảm với thần linh... Không chỉ có vậy, tranh Đông Hồ còn là những tác phẩm nghệ thuật thực sự với cách phối màu độc đáo, cách in nét, in mảng đặc trưng; là tín hiệu rõ nét báo Tết đến, xuân về và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của mỗi gia đình trong suốt hàng trăm năm lịch sử.

Thời suy thoái của dòng tranh Đông Hồ là những năm từ 1989 đến 1994, khi đó Tổ tranh Dân gian của làng tan rã, tranh không thể xuất khẩu và rất khó bán tại thị trường nội địa, nên đã đứng trước nguy cơ thất truyền: nhiều gia đình bỏ nghề, thế hệ nghệ nhân dần qua đời, nhiều tấm ván khắc thất lạc...

Từ năm 1995, việc quảng bá tranh Đông Hồ qua các hoạt động văn hóa - du lịch đã làm cho làng tranh Đông Hồ được khôi phục lại và được nhiều người biết đến qua các phương tiện thông tin đại chúng. Đi qua những thăng trầm của lịch sử, tranh Đông Hồ đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình, cho dù đã từng có những năm tháng đứng bên bờ của sự lụi tàn. Cuối năm 2012, tranh Đông Hồ đã được nhà nước xếp hạng Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Những người "muôn năm cũ"

Làng Đông Hồ xưa kia có 17 dòng họ đều tham gia sản xuất tranh, song đến nay, chỉ còn 3 dòng họ giữ được nghề của cha ông với trên 30 người trực tiếp tham gia vào hoạt động làm tranh. Trong đó, nổi danh nhất là dòng họ Nguyễn Đăng với các tên tuổi như lão nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và con cháu, nghệ nhân Nguyễn Đăng Khiêm và con trai, nghệ nhân Nguyễn Đăng Sần và con trai; dòng họ Nguyễn Hữu với nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam và con cháu; dòng họ Trần Nhật với nghệ nhân Trần Nhật Tấn cùng vợ và con gái...

Và còn một người nữa không thể không nhắc tới, đó chính là họa sĩ tự do Lê Xuân Kiêm. Ông Lê Xuân Kiêm cũng là một nghệ nhân dân gian, ông chuyên vẽ tranh làng Hồ chứ không phải là in tranh với đề tài tương tự các đề tài tranh in của làng Đông Hồ.

Đến nay, bậc cao niên nhất còn sót lại là cụ Nguyễn Đăng Chế (sinh năm 1936) và cũng được coi là “linh hồn” của làng nghề. Tên tuổi nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã nổi tiếng khắp cả nước bởi lẽ ông được coi là người có công đầu trong việc khôi phục lại các hoạt động sản xuất kinh doanh của nghề làm tranh Đông Hồ.

Ngày nay, số nghệ nhân có khả năng chạm khắc ván in như nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả (con trai thứ của nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam) rất hiếm hoi. Ảnh: Lê Bích

Theo thông tin từ nhà sưu tập - nghiên cứu Nguyễn Thị Thu Hòa, từ năm 1992 đến nay, ông Nguyễn Đăng Chế đã sưu tầm được hàng trăm bản khắc gỗ cổ thuộc 10 gia đình từng làm tranh trong làng, phục chế được trên 130 mẫu tranh truyền thống và hàng trăm mẫu tranh do một vị Giáo sư người Pháp tặng đã được ông phục chế thành công.

Hiện tại, kho mộc bản của gia đình ông có khoảng 400 bộ ván in (mỗi bộ trung bình 4 ván), giữ kỷ lục của làng và cũng là nghệ nhân sở hữu nhiều mẫu tranh cổ nhất hiện nay. Bản thân ông đã như một “bảo tàng sống” của làng, đồng thời ông cũng chính là chủ nhân của một bảo tàng tranh Đông Hồ với một kho tư liệu quý giá cho bất cứ tổ chức, cá nhân nào muốn nghiên cứu, tìm hiểu về tranh Đông Hồ hiện nay.

Ngoài ra, ông Nguyễn Đăng Chế còn được biết đến là một người đưa không khí thời sự - thời cuộc vào tranh với những sáng tác được nhiều người biết đến như “Không cho chúng nó thoát”, “Bác Hồ và thiếu nhi”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Tay cày, tay súng”, “Bình dân học vụ”, “Kiến thiết quốc gia”, “Bộ đội tát nước giúp dân”...

Trong buổi ra mắt cuốn sách “Dòng tranh dân gian Đông Hồ”, một số họa sĩ đương đại như Lê Thiết Cương, Nguyễn Đức Hòa tỏ ra rất quan tâm, hào hứng với tranh Đông Hồ với đề tài cổ động. Ngoài nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế với các tác phẩm do ông sáng tác đã kể ở trên, còn có nghệ nhân Nguyễn Đăng Khiêm với nhiều tác phẩm đặc sắc như “Thăng Long rực lửa”, “Hai miền diệt Mỹ”, “Nhớ ngày 5 tháng 8”, “Hoan hô đường Chín anh hùng”... hay nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam với “Tấm áo năm xưa”, “Quan họ”...

Đây chính là nét đặc sắc của dòng tranh Đông Hồ, nó chứng minh sự sinh sôi, nảy nở của các tác phẩm tranh dân gian hòa nhịp trong dòng chảy của lịch sử dân tộc. Điều này ở những dòng tranh nổi danh khác như Kim Hoàng, Hàng Trống đều không thấy có dấu tích.

Ngày nay, con số hơn 30 nghệ nhân đang thực hành nghề làm tranh hiện nay ở Đông Hồ không phải là nhiều, song nó cho thấy nguy cơ thất truyền (giống như việc dòng tranh Kim Hoàng đã từng thất truyền tới 70 năm) dường như đã bị đẩy đi một quãng khá xa. Đặc biệt là khi Đề án “Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa tranh dân gian Đông Hồ” đã được tỉnh Bắc Ninh phê duyệt với kinh phí lên đến 91 tỉ đồng, trong đó có một số công việc trọng tâm như đầu tư xây dựng Trung tâm bảo tồn và phát huy giá trị tranh dân gian Đông Hồ, xây dựng hồ sơ cấp quốc gia trình UNESCO đưa dòng tranh Đông Hồ vào danh mục “Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp”.

Tuy nhiên, theo chia sẻ của GS.TS Bùi Quang Thanh - người tham gia xây dựng hồ sơ di sản này thì: “Hiện hồ sơ này đang phải “xếp hàng”, bởi tháng 12-2019 UNESCO sẽ bỏ phiếu cho hồ sơ hát Then của các dân tộc Tày - Nùng - Thái; tháng 12-2020 là nghệ thuật xòe Thái và nghệ thuật làm gốm truyền thống của người Chăm, sau đó mới “đến lượt” tranh dân gian Đông Hồ, dự kiến sẽ là tháng 12-2021...”. 

Hy vọng tranh Đông Hồ sẽ sớm được UNESCO công nhận là “Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp” để người Việt thêm tự hào với nét văn hoá nghệ thuật dân gian đặc sắc của đất nước mình.

Nguyệt Hà
.
.