Nữ sĩ Đoàn Lê: Mai ta ra biển, tan vào sóng xanh

Thứ Ba, 14/11/2017, 08:26
Chiều 6-11-2017, nữ sĩ Đoàn Lê - một người con tài hoa của đất Cảng Hải Phòng đã từ biệt thế giới sau một thời gian khá dài chống chọi với những biến chứng của căn bệnh tiểu đường. Tin nhà văn Đoàn Lê vĩnh viễn đi xa đã gây xúc động cho nhiều người từng quen biết chị, bởi lẽ những năm tháng nữ sĩ Đoàn Lê đã sống đều là những năm tháng bà tận hiến cho nghệ thuật, cho cuộc đời. 


Những năm tháng sống trên thế gian, cuộc đời nữ sĩ Đoàn Lê cũng đầy nỗi niềm long đong vất vả, nhưng kỳ lạ thay, trên gương mặt bà lúc nào cũng phảng phất nụ cười dịu dàng...

Mấy năm gần đây, do sức khỏe mỗi lúc một kém đi, nữ sĩ Đoàn Lê đã chuyển hẳn lên Hà Nội sống cùng gia đình người con gái. Rời xa căn nhà ở xóm núi Đồ Sơn (Hải Phòng) - nơi bà đã có quãng thời gian 20 năm gắn bó - quá nửa không gian dành cho nghệ thuật hội họa, bà đã để lại đó rất nhiều nhung nhớ và khát vọng được tận hiến cho hội họa, văn học đến những giây phút cuối đời.

Suốt 20 năm qua, bỏ lại sau lưng mọi nỗi muộn phiền, nữ sĩ Đoàn Lê về ở ẩn ở phố biển Đồ Sơn để sống và sáng tác. Suốt 20 năm, bà ẩn mình, nương tựa vào những trang văn và những sáng tác hội họa. Đoàn Lê kể rằng, dường như bà đã lạc vào hẳn một thế giới khác, nơi mọi lỗi lầm đã được bà dung thứ và niềm đau được xoa dịu bằng phương thuốc đặc hiệu có tên là “thời gian”.

Có lẽ, đây chính là những năm tháng bình an nhất của cuộc đời bà cho đến khi người con trai của bà qua đời. Vì sức khỏe không cho phép nữa, nên Đoàn Lê đành gác lại mọi giấc mơ đời mình, nhưng bà vẫn tâm sự rằng cứ bận nào thấy người khỏe lên là lại cảm thấy bứt rứt, muốn làm cái gì đó. Dường như trong trái tim Đoàn Lê, lúc nào cũng có điều gì đó thôi thúc bà hướng về phía ánh sáng của nghệ thuật. Người phụ nữ của đam mê và khát vọng đó đã ra đi thanh thản vào một buổi chiều thu, để lại trong trái tim nhiều người nhiều nỗi niềm nhung nhớ...

Cách đây tròn 2 năm, tôi đến thăm nữ sĩ Đoàn Lê tại nhà người con gái ở một khu chung cư trên phố Phùng Khoang, bà vui vẻ đọc cho tôi nghe hai câu thơ và bảo rằng tâm nguyện cuối đời của bà: “Mai ta ra biển/ Tan vào sóng xanh”. Bà muốn sau khi mất, sẽ được “hóa” và đem bình tro về rải xuống biển Đồ Sơn quê hương mình - nơi có những con sóng ngày đêm xô bờ, nơi có căn nhà nhỏ ở xóm Núi mà bà đã về ẩn mình để viết, vẽ suốt 20 năm.

Đoàn Lê cho rằng con người ta sinh ra từ cát bụi thì lại trả về với trời đất nắm cát bụi cuối cùng sau khi rời thế giới. Bà nói tới chuyện "hậu sự" một cách vô cùng bình thản, với tâm thế đón đợi nó như cách từ lâu bà nhìn nhận kiếp người cũng chỉ như một áng phù vân, hiện hữu để rồi lại tan biến đi trong vũ trụ bao la vô cùng vô tận này: “Giờ chỉ đợi các cụ ới một tiếng là lên đường thôi...”.

Và rồi đến ngày hôm qua, nữ sĩ Đoàn Lê đã nghe được tiếng gọi từ phía xa xăm ấy. Thực hiện di nguyện của mẹ, chị Quỳnh Lê - con gái của nữ sĩ Đoàn Lê cho biết: "Gia đình sẽ tổ chức tang lễ cho mẹ ở nhà tang lễ Phùng Hưng, sau đó đưa mẹ đến Đài hóa thân Hoàn Vũ. Còn ước vọng được hóa thân vào biển xanh như mẹ từng nói thì gia đình chúng tôi phải bàn bạc thêm đã. Nhưng chắc chắc chắn chúng tôi sẽ đưa mẹ về với quê hương Hải Phòng thân yêu của chúng tôi...".

Trong cuộc đời làm báo của mình, tôi cảm thấy thật may mắn được gặp gỡ, tiếp xúc và viết bài về nữ sĩ Đoàn Lê. Lần đầu tôi gặp bà là khi tôi cùng vài người bạn học chung khóa Điện ảnh của bà từ Hà Nội xuống Đồ Sơn thăm bạn vào năm 2008.

Hồi đó, dù đã mang trong mình căn bệnh tiểu đường, nhưng nữ sĩ vẫn còn nhanh nhẹn lắm với mái tóc đen được cắt vuông vắn, gọn gàng, khá trẻ trung so với tuổi ngấp nghé 70. Người đàn bà tôi gặp hôm ở căn hộ Phùng Khoang có mái tóc bạc trắng được búi gọn gàng, làn da trắng mướt vì thiếu nắng và dẫu hằng ngày có cố gắng đi bộ 30 phút để rèn luyện sức khỏe thì cũng chỉ là đi loanh quanh trong nhà với những bước đi khá chậm rãi, yếu ớt. Chỉ có nụ cười đôn hậu với ánh mắt tươi vui của bà là vẫn như xưa.

Và tôi tin chắc rằng, dù đã đi đến một nơi xa, nhưng những tình cảm, khát vọng sống và sự trìu mến mà bà gửi lại cuộc đời, sẽ còn mãi trong lòng những người thân còn sống và những người mến mộ tài năng nghệ thuật điện ảnh - văn học - hội họa mà bà từng cống hiến.

Nhớ về nhà văn Đoàn Lê, mới hay rằng bà lúc nào cũng là mình, chẳng bao giờ đổi thay dù hoàn cảnh có thế nào. Từ những năm đất nước còn chiến tranh đói khổ cho đến sau này khi kinh tế đã khá giả hơn, tất thảy mọi sầu khổ, vất vả, toan lo... cứ gói ghém trong lòng hay gửi vào trang viết thôi chứ chẳng bao giờ thấy bà kêu ca, phàn nàn. Cuộc sống riêng tư dù có nhiều nỗi buồn tủi, nhưng nữ sĩ Đoàn Lê bảo rằng từ lâu rồi bà chẳng bao giờ trách hận, oán thán gì ai hay cuộc đời.

Tôi cứ nhớ mãi lời bà từng nói: “Mỗi người khi có mặt trên cuộc đời này đều có một chức phận, một bi kịch của riêng họ. Mỗi lần vượt qua được thử thách, khó khăn hay một bi kịch chính là hành trình con người đó tạo nên số phận của riêng họ.

Phàm đã được sinh ra làm người là hầu như đều phải đi một con đường nào đó để tạo nên số phận của riêng mình, chẳng ai giống ai cả. Tôi cũng vậy. Tạo hóa ban cho tôi chút khả năng để làm việc nhưng cũng hết lần này đến lần khác thử thách tôi. “Con tạo” không ngừng “xoay vần” với tôi và điều đó khiến tôi có cuộc đời khác tất cả mọi người...”.

Sở dĩ tôi muốn gọi Đoàn Lê là “nữ sĩ” bởi thật khó dùng danh từ gì để gọi Đoàn Lê cho đúng và đầy đủ nhất với những công việc, những lĩnh vực bà từng làm, từng dấn thân. Với điện ảnh, bà từng là diễn viên điện ảnh tốt nghiệp khóa đầu tiên của Trường Sân khấu điện ảnh, là thiết kế mỹ thuật điện ảnh (những năm nghỉ hưu bà trở thành họa sĩ thực thụ), là biên kịch rồi còn kiêm luôn cả... đạo diễn.

Với văn chương, bà là người làm thơ từ thuở thiếu thời, viết nhiều truyện ngắn được bạn đọc yêu thích, là tác giả của 3 cuốn tiểu thuyết đã xuất bản. Với hội họa, tranh của bà cũng được nhiều người yêu mến, có nhiều lần triển lãm tại Hà Nội và Hải Phòng.

Bà cũng tâm sự rằng: “Viết văn giúp tôi giải tỏa những trải nghiệm, tâm tư, ẩn ức trong lòng nhưng khi cảm thấy ngôn ngữ trở nên bất lực, tôi lại nhờ đến hội họa. Văn học và hội họa khiến tôi tìm được sự cân bằng, tìm thấy sự bình yên...”.

Chắc cũng đã hai, ba lần tôi hỏi bà cùng một câu hỏi rằng, bà lấy đâu ra sức lực, tinh thần để làm nhiều việc trong cuộc đời mình như vậy? Lần nào bà cũng mỉm cười, nụ cười đôn hậu nhưng cũng không kém phần hóm hỉnh mà rằng: “Vì không có ai yêu mình nên mình phải đi yêu những thứ khác cho bớt cô đơn, trống trải mà thôi!”.

Nhưng tôi cũng nhận ra rằng, đó là cách diễn đạt khác của một sự thật: Chỉ có văn chương, nghệ thuật mới là thứ an ủi, xoa dịu cũng như làm trái tim luôn rộng mở, yêu thương của nữ sĩ Đoàn Lê bớt trống trải, bớt cô đơn, dù bà từng tâm sự với tôi: “Là người đa mang, quá nhiều đam mê, tôi đã phải trả giá cho những đam mê ấy bằng chính cuộc đời đầy giông gió của mình!”.

Trong văn chương nghệ thuật cũng vậy, lúc nào Đoàn Lê cũng vấn vương, cũng xót xa, cũng đau đáu và đồng cảm với thân phận, bi kịch của những người phụ nữ Việt Nam vốn luôn chịu nhiều vất vả, thiệt thòi, cho dù là một người phụ nữ thôn quê chân lấm tay bùn hay một “Vua gái” như Lý Chiêu Hoàng..., bởi bà quan niệm: “Phàm đã sinh ra là phụ nữ đã là khổ rồi, chưa nói đến bao nhiêu bi kịch có thể đến với họ trong đời...”.

Hôm nay, trong lúc viết những dòng này, tôi lại một lần nữa ngậm ngùi nghe bài hát “Chị tôi” của nhạc sĩ Trọng Đài phổ thơ Đoàn Thị Tảo. Nhà thơ Đoàn Thị Tảo là em gái của nhà văn Đoàn Lê đã viết bài thơ này tặng chị gái mình từ thời trẻ và cũng không ngờ được những câu thơ đầy nỗi niềm tâm tư này là dự cảm khá chuẩn xác về cuộc đời nhiều nỗi đa đoan của chị gái: “Thế là chị ơi, rụng bông hoa gạo/ Ô hay, trời không nín gió cho ngày chị sinh/ Ngày chị sinh trời cho làm thơ/ Vấn vương mấy sợi tơ trời/ Tình riêng bỏ chợ/ Tình người đa đoan...”.

Và rồi đến buổi chiều ngày 6-11-2017, "bông hoa gạo Đoàn Lê" đã rụng bên trời Hà Nội - mang theo mọi đa đoan cuộc đời mình và gửi lại nhân gian tấm chân tình đầy thương mến... 
Nguyệt Hà
.
.