Về Thổ Hà xem tuồng cổ

Thứ Năm, 16/05/2013, 08:00

Làng Thổ Hà, xã Vân Hà (Việt Yên, Bắc Giang) không chỉ nổi tiếng bởi lối chơi quan họ độc đáo bên bờ Bắc sông Cầu mà còn là một trong số ít nơi ở Bắc Giang giữ được nghệ thuật tuồng. Tuy vậy, trước sự lấn át của các loại hình nghệ thuật mới, những người yêu tuồng nơi đây không khỏi trăn trở về số phận của môn nghệ thuật truyền đời này.

1."Phi tuồng bất thành hội" là câu nói cửa miệng xưa nay của người dân trong ngôi làng nhỏ nằm nép mình bên sông Cầu này. Có lẽ vì vậy mà năm nào làng mở hội (ngày 20, 21 tháng Giêng) đều tổ chức diễn kịch tuồng kín hai đêm. Chẳng ai còn nhớ nghệ thuật tuồng có ở đây từ khi nào, chỉ biết rằng hết đời này qua đời khác, người dân vẫn trao truyền cho nhau từ kịch bản, tích truyện, trang phục, vai diễn cho đến cách hóa trang, điệu bộ, cử chỉ riêng của tuồng... Dẫn tôi đi một vòng quanh mấy ngõ nhỏ được phơi kín bởi những dàn bánh đa nem đang hanh khô đến độ, ông Trịnh Quang Liêm (60 tuổi) phó thôn phụ trách "mảng" văn hóa cho biết: "Xưa kia lứa tuổi như tôi ở làng này ai cũng biết một chút về tuồng. Buổi tối mọi người thường tụ tập ở sân đình uống trà rồi diễn tuồng cho bà con thưởng thức đến tận khuya. Dù không được học bài bản nhưng vì nghe nhiều, xem nhiều đâm ra nhiều người đã thuộc nằm lòng từng vở diễn, điệu bộ, làn điệu và cách thể hiện trong các vở tuồng. Những vở diễn đã làm nên tên tuổi của Thổ Hà như: "Triệu Đình Long cứu chúa"; "Đào Tam Xuân"; "Ngự đệ Kim Hùng", "Bá đao Diệm Thiên Hùng"… Lớp người diễn tuồng có tiếng ở đây là các kép hạng như: Nguyễn Đức Dĩ, Trịnh Xuân Tiện, Nguyễn Đình Xuyến…Các cụ ấy đều đã quy tiên nhưng mọi bí quyết về tuồng đã kịp trao gửi cho hậu thế. Năm 1987, lớp trẻ trong làng thành lập câu lạc bộ tuồng do chính các cụ dìu dắt và truyền dạy".

Con ngõ nhỏ xíu chỉ vừa đủ hai người đi bộ tránh nhau đưa tôi và phó thôn Trịnh Quang Liêm đến nhà ông Nguyễn Công Sơn, Phó chủ nhiệm CLB tuồng Thổ Hà. "Ông Sơn là người đã hết lòng vun đắp cho nghệ thuật tuồng của quê hương suốt mấy chục năm qua" - Phó thôn Liêm cho biết. Bước qua mấy bậc thềm của ngôi nhà bầy biện đủ thứ đồ lỉnh kỉnh, dù chưa rõ "mày ngang mũi dọc" ông Sơn thế nào nhưng chúng tôi đã nghe tiếng hát tuồng nỉ non trên sân thượng. Thì ra, người đàn ông 55 tuổi này đang giúp vợ phơi nốt mẻ bánh vừa tráng xong. Biết có người muốn nói chuyện về tuồng, ông mừng như bắt được của. Để mẻ bánh đang phơi dở, ông liền rảo chân thay bộ quần áo khác, rồi chỉn chu pha ấm trà ngồi giữa nhà tiếp khách. Mở đầu câu chuyện, ông khoe, "mấy hôm nữa đội tuồng chúng tôi sẽ đi biểu diễn tại một lễ hội gần đền Gióng (Hà Nội). Thù lao mỗi buổi diễn thấp hơn nhiều so với ngày công làm bánh tráng, nhưng đã đam mê thì chẳng toan tính, thậm chí phải bỏ tiền túi ra nhưng anh em CLB vẫn vui vẻ. Cách đây hai tháng, mấy anh em chúng tôi sang Bắc Ninh diễn tuồng từ chập tối đến một giờ đêm mới về đến bến sông Thổ Hà. Hết giờ đò, trời lại lạnh giá, gọi đến khản cả hơi mới có một con đò chậm rãi sang sông. Do đã quá muộn nên thù lao buổi diễn cả đêm đó chỉ đủ trả tiền đò". "Ông ấy yêu tuồng đến mức cứ đi thì chớ, hễ về đến nhà là mở đĩa xem hát tuồng. Mà không chỉ nghe hát không đâu, ông còn hát và diễn theo… tivi nữa" - Bà Cáp Thị Thao, vợ ông Sơn ngồi kế bên tiếp lời.

Người già ở Thổ Hà đều cho rằng, nghệ thuật Tuồng tại đây còn giữ được nhiều yếu tố truyền thống do không bị "đứt quãng". "Tre già măng mọc", lớp trước dạy lớp sau nên hầu hết lối diễn cổ chưa bị mai một. Không chỉ xuất hiện trên sân khấu, các nhân vật tuồng còn là "điểm nhấn" trong nghi lễ rước của lễ hội Thổ Hà hàng năm, trong đó có hơn hai mươi vai đóng thế được trang điểm khá cầu kỳ như: Tổng cờ, Tổng Kiếm, Tam Đa, Tiên đồng, Ngọc nữ…Ông Sơn cho biết thêm: Tuồng được xem như là "sân khấu" của những người anh hùng. Nếu không có sức khỏe thì không thể diễn được tuồng và ngược lại, nếu diễn thường xuyên thì rất có lợi cho sức khỏe. Từng điệu bộ, dáng vẻ, thao tác diễn tuồng rất khó thể hiện, đơn cử như động tác vuốt râu, chèo cây, múa kiếm, chèo đò cưỡi ngựa… phải thể hiện sao cho thật giống để người xem liên tưởng như thật ngoài đời. Về nội dung, tuồng thường lột tả những hoàn cảnh đầy mâu thuẫn, xung đột và bi ai. Các nhân vật chính diện luôn phải vươn lên thoát khỏi sự chế ngự của hoàn cảnh. Họ hành động một cách dũng cảm và trở thành một hình mẫu, một bài học cho người đời ngưỡng mộ noi theo. Vì vậy, cái khó của diễn viên là phải diễn sao cho lột tả hết thần thái, tính cách của nhân vật. Và để làm được điều đó, không có cách nào hơn là phải khổ luyện.

2. Những ông tướng mặt đỏ như gấc, râu dài tới ngực, áo quần lộng lẫy sắc màu hết nhảy múa lại quát tháo ầm ĩ trên sân khấu trong tiếng nhạc kịch bi hùng, ai oán trong vở tuồng "Bá đao Diệm Thiên Hùng" đã để lại ấn tượng với không ít người đến dự lễ hội truyền thống của làng Thổ Hà. Dù có hàng chục người biết diễn tuồng nhưng thực chất chỉ chưa đến 10 người thường xuyên tham gia CLB. Bởi ngoài việc phải tự túc kinh phí hoạt động, theo "nghiệp" tuồng họ còn tốn khá nhiều thời gian nên không ít người đành lòng xa rời nó. Ngoài ra, một trong những lý do chính khiến những vai diễn tuồng từng đạt tới "độ chín" ở đây ngại "động chạm" bởi vấn đề tâm linh. Theo lý giải của ông Trịnh Quang Liêm, vài năm trước, làng có 4 kép đen khá giỏi đã qua đời một cách đầy bí ẩn. Người ta đồn đoán rằng, các diễn viễn này thường đóng vai những ông tướng lừng danh trong lịch sử nên đã phạm húy…?. Mặc dù vậy, vẫn còn một số người không lỡ để nghệ thuật truyền thống của làng bị chìm vào quyên lãng nên vững lòng bám trụ và vượt qua những lời đồn đoán đầy liêu trai, trong đó ngoài ông Nguyễn Công Sơn còn các ông: Phạm Tiến Tuấn, Trịnh Đăng Thời, Trịnh Đăng Đàm…

Hơn 20 năm diễn tuồng, được mời đi diễn ở nhiều nơi như Bắc Ninh, Hà Nội đã giúp ông Sơn nhận ra một điều rằng, tuồng là môn nghệ thuật "không hề đơn giản" bởi nó không chỉ kén người diễn mà còn kén cả người xem. Xưa kia, tuồng để mua vui cho vua quan trong những buổi yến tiệc hội hè và dùng cả trong những buổi tế lễ, thiết triều. Trong tuồng, nam diễn viên gọi là "kép", gồm có kép văn, kép võ, kép rừng, kép đen, kép trắng, kép anh, kép em, kép trạng nguyên, kép nghèo (hàn sĩ, hàn nho…). Nói về độ khó của tuồng, ông Sơn cho hay: ngôn ngữ hát tuồng đa phần là Hán - Việt hoặc những từ ngữ triết lý, bác học, văn chương theo lối ẩn dụ. Hầu hết các tích tuồng đều xoay quanh các đề tài, nhân vật trong lịch sử Việt Nam, Trung Quốc, trong đó chiếm được cảm tình của người xem nhất vẫn là các đề tài "phò vua diệt nguỵ"; "trung thành - phản nghịch"… Nó mang âm hưởng hùng tráng, những tấm gương tận trung báo quốc, những bài học về đạo làm người. Ngoài ra, các điệu cơ bản của tuồng như ngâm, vịnh, thán oán, nam thương, xuân nữ, bạch, xướng, nam bình, khách... đều dùng các thể thơ thất ngôn, ngũ ngôn, Đường luật, thơ lục bát và phú khá chặt chẽ. Ví như thay vì nói "vui lắm" sẽ nói "mừng thay"; "rất ái ngại" -  "chẳng hân hoan"; "xin ông nghĩ lại - "cho mụ thưa qua"… do vậy đòi hỏi cả diễn viên lẫn khán giả phải có những kiến thức nhất định về ngôn ngữ cũng như lịch sử mới có thể hiểu được.

Hay như trong vở "Đào Tam Xuân", khi Đào Tam Xuân nghe tin con trai mình tử thương nơi chiến trận, diễn viên phải tạo ra được kịch điểm của mẫu thuẫn, phải bứt lên thành cao trào của nỗi đau khổ, uất ức, như thúc giục sự báo thù, lấy oán trả oán, hờn căm mà xót thương khiến người nghe như thấy tiếng ai oán, xót thương. Điểm khó nữa của Tuồng theo ông Sơn, là cách hóa trang với những quy ước chặt chẽ theo một số mẫu chung, vai "trung" mặt đỏ, râu dài; vai nịnh mặt dằn, râu ngắn; mặt trắng là người có diện mạo đẹp, tính cách trầm tĩnh; mặt đỏ là người trí dũng, chững chạc; mặt tròng xéo đen là tướng phản... Từ những cái khó trên, người yêu tuồng ở Thổ Hà không khỏi trăn trở về số phận của môn nghệ thuật truyền thống này khi chưa tìm được lớp kế nghiệp. Điều mà ông Sơn và nhiều người ở đây mong muốn hiện nay, là địa phương sớm có cơ chế đầu tư để khôi phục, mở rộng mô hình CLB hát tuồng, trong đó chú trọng việc truyền dạy cho lớp trẻ

Kim Sa
.
.