Tưởng niệm 5 năm ngày mất của NSND Trọng Khôi: Mặt vàng như nghệ, mà vẫn còn sĩ...

Thứ Hai, 26/06/2017, 08:05
Nhà thơ Hữu Thỉnh, trong một lễ tưởng niệm ngày mất của NSND Trọng Khôi - với tư cách là một người bạn -  đã tâm sự rằng: "Trọng Khôi là một nghệ sĩ nổi tiếng, một nghệ sĩ lớn của sân khấu đương đại Việt Nam, nhưng không bao giờ tự coi mình là “sao” hay “siêu sao"; trái lại, anh vô cùng gần gũi, thân thiết, hòa đồng cùng với công chúng, anh xứng đáng là một “Nghệ sĩ của Nhân dân”. 


Quả đúng như vậy, sinh thời, Trọng Khôi là một con người tình cảm, vui vẻ, một nghệ sĩ của cộng đồng, nhất là trong các cuộc gặp gỡ, giao lưu cùng bạn hữu, với ly rượu trên tay, anh thường ngâm nga câu hát "Đã đến đây rồi, ta cứ trăm phần trăm" và cạn hết một hơi. Còn với những người mến mộ mình, anh vẫn đùa vui "Nghệ sĩ chúng tôi là gì, là mặt vàng như nghệ mà vẫn còn sĩ, cho nên cũng thường thường bậc trung thôi"…      

Trọng Khôi (tên thật là Nguyễn Trọng Khôi) sinh ngày 16-2-1943. Quê gốc Hải Dương, nhưng sinh ra và lớn lên tại Hà Nội (ngõ Yên Thế - phố Nguyễn Thái Học). Trọng Khôi đam mê sân khấu từ bé. Đang ở độ tuổi thiếu niên, Trọng Khôi sinh hoạt Đội kịch Thanh niên cùng các nghệ sĩ trẻ Vũ Hà, Nguyễn Ánh, Doãn Hoàng Giang và một số thanh niên yêu sân khấu.

Nhưng con đường đưa Trọng Khôi trở thành nghệ sĩ bắt đầu từ ngày còn học tiểu học, khi thầy giáo của anh rất thích dàn dựng những vở diễn để minh hoạ cho bài giảng, nên mới 7 tuổi, Trọng Khôi đã được chọn đóng nhiều vai. Năm 1959, tròn 16 tuổi, đang học phổ thông, Trọng Khôi thi đỗ và theo học Khóa I Trường Sân khấu Việt Nam (1959 - 1964).

Từ đó, ước mơ trở thành một nghệ sĩ sân khấu của Trọng Khôi đã thành hiện thực, với sự hướng dẫn, dạy dỗ của những người thầy nổi tiếng như GS.TS.NSND Đình Quang, NSND Dương Ngọc Đức, và đặc biệt là sự truyền nghề của đạo diễn, NSND Thế Lữ và con trai ông, NSND Nguyễn Đình Nghi.

Sau khi tốt nghiệp, Trọng Khôi về công tác tại Đoàn Kịch nói Trung ương (Nhà hát Kịch Việt Nam ngày nay), đúng vào thời kỳ giặc Mỹ leo thang ném bom miền Bắc, 1965. Năm 1971, Trọng Khôi được đảm nhận một vai diễn chính trong vở “Đôi mắt” của Vũ Dũng Minh, đạo diễn Dương Ngọc Đức. Đó là thương binh Việt - một vai diễn nổi tiếng - đã trở thành tấm giấy thông hành đưa Trọng Khôi đi vào nghiệp sân khấu.

Nhớ lại những năm bảy mươi của thế kỷ XX, sau những đêm biểu diễn, Trọng Khôi đã đi bốc vác nứa, vác luồng ở bến Phà Đen từ ca nô lên bờ để có thêm thu nhập mua sách và đỡ đần kinh tế gia đình. Khi Trọng Khôi khoe với anh em bốc vác ở bến phà, mình là diễn viên, mọi người không tin, vì trông hình thể anh không có dáng vẻ gì là một diễn viên.

Thế rồi đúng buổi tối công diễn “Đôi mắt”, Trọng Khôi xin thêm được mấy chục giấy mời để mời anh em bốc vác đi xem tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Sau đêm diễn, những dân phu ấy hết sức cảm động, chúc mừng Trọng Khôi - lúc đó, mọi người mới tin Trọng Khôi là diễn viên tài năng của Đoàn kịch Trung ương - nhưng điều họ suy nghĩ, băn khoăn, là tại sao người nghệ sĩ trẻ đó lại phải lăn lộn ở bến Phà Đen cả ngày đêm, mưa nắng, để kiếm thêm đồng tiền, bát gạo nhọc nhằn như thế…

Cho mãi đến nhiều năm sau, Trọng Khôi vẫn nói rằng, anh không bao giờ quên được khoảng thời gian này để tự rèn luyện mình, tự tay kiếm đồng tiền bát gạo hữu ích, và nhất là hiểu thêm được cuộc sống gian khổ của người dân lao động…

Cũng những ngày đó, Trọng Khôi được phân một căn buồng nhỏ, khoảng 9 mét vuông trong khu tập thể sau Nhà hát Lớn, Hà Nội. Thế là cả nhóm “nghệ sĩ” trẻ chúng tôi, hầu hết chưa có vợ con thường xuyên tụ tập ở đó. Ngọc Thụ, Thanh Tân, Chu Hoạch, Lương Vĩnh, Diệu Tô Minh, anh Văn Xương họa sĩ Đoàn Xiếc Trung ương, Tường Vân từ Hải Phòng về, rồi thi thoảng, nhà thơ Phùng Quán, Tạ Vũ, Trúc Cương… cũng đến tụ tập với những bữa ăn là mì sợi nấu với rau muống, dăm ba củ lạc rang, lạc luộc, nhưng rượu quê (cuốc lủi) thì rất sẵn… Ai có gì thì mang đến, vài ba đồng, chai rượu, cân mì… nhưng khổ chủ vẫn là Trọng Khôi.

Một buổi tối đầu năm 1972 - những ngày chiến tranh ác liệt - mấy anh em lại tụ tập nghe đề cương kịch bản “Lửa phi trường” của Ngọc Thụ (sau này đã được hàng chục đoàn cải lương trong nước dàn dựng). Tranh luận, cãi vã, góp ý đến gần sáng, mỗi người làm một bát mì sợi chan xáo chó (ngày đó đầu chó luộc mua ở chợ Bắc Qua rất rẻ)…

Rồi do đam mê văn chương nghệ thuật, tuần nào chúng tôi cũng tụ tập như thế trong cái thiếu, cái nghèo chung của đất nước. Và cái tên “Nhóm chân đất” (nghệ sĩ nghèo, chỉ “đá bóng” bằng chân đất ở bãi Long Biên, chứ không đá chân giày ở sân Hàng Đẫy), hoặc là “Vê Zét” (Vô Danh - không in thơ, không triển lãm tranh)… đã được chúng tôi đặt ra cho vui như thế.

Nhưng nào có ai ngờ, cái tên gọi ấy đã làm khổ chúng tôi một thời gian dài đến hàng chục năm sau mới được giải tỏa… ("Một lũ trẻ bơ vơ không nhà cửa/ Sống bằng thơ đau và rượu cay" - thơ Phùng Quán "Tôi hốc hác vì miếng ăn, miếng uống" - thơ Trúc Cương; "Nhịn đói, thức đêm và đi bộ lang thang" - thơ Lê Huy Quang).

Tất nhiên, ngoài tụ tập thường xuyên vui vẻ ở căn buồng nhỏ ấm cúng đó, thi thoảng có tiền; tôi, Ngọc Thụ, Trọng Khôi, họa sĩ Văn Xương, nhà thơ Phùng Quán lại đạp xe lên chợ Bắc Qua vào khoảng 10 giờ đêm; mỗi người làm một cái bánh chưng rán 5 hào, nhâm nhi với chén rượu quê, thế là lại văn thơ, lại kịch, lại vẽ… cứ ầm ầm trào tuôn.

Nhưng, tụ mấy rồi cũng phải chia xa…Cuối năm 1973, khoe với chúng tôi là đã có người yêu, Trọng Khôi làm một bữa rượu lạc đạm bạc để trình diện “cô dâu tương lai” - đó là chị Bình, công tác tại Cửa hàng Bách hóa tổng hợp Tràng Tiền Hà Nội.

Đầu năm 1975, hai người làm lễ cưới, được chuyển sang một căn hộ tập thể khác cũng của Đoàn kịch Trung ương, khoảng 15 mét vuông. Căn buồng 9 mét vuông phải trả lại, thế là không còn địa điểm tụ tập nữa, chúng tôi mỗi người một ngả, hàng tuần mới tụ hội. Sau Tường Vân, Trọng Khôi là người thứ hai “xung kích” vào mặt trận gia đình; còn tôi, Ngọc Thụ, Lương Vĩnh, Diệu Tô Minh, Chu Hoạch thì vẫn là “trai tân” - "bốn mùa quăng quật những rong chơi" - để vẽ, làm thơ, viết kịch…

Ngày 30-4-1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, Đoàn kịch Trung ương được mệnh danh với cái tên “Anh Cả đỏ”, với một dàn sao các nghệ sĩ nổi tiếng, trong đó có Trọng Khôi; đã biểu diễn hết sức thành công trên các tỉnh, thành phố trong cả nước.

Tiếp đó là giai đoạn hoàng kim nhất của sân khấu Việt Nam. Năm 1990 và 1995, nghệ sĩ Trọng Khôi đạt Huy chương Vàng tại Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc. Anh đã đi biểu diễn giao lưu quốc tế ở các nước Philippines, Nga, Mỹ và được trao tặng bằng khen “Nghệ sĩ xuất sắc nhất Liên hoan Sân khấu Quốc tế Mátxcơva năm 1990”.

Một số vai diễn tiêu biểu, có thể nói là “để đời” của Trọng Khôi như Đialốp (Khúc thứ ba bi tráng); Tướng Đờ Cát (Bài ca Điện Biên); Đimitrốp (Đỏ và Nâu); Tổng thống Dương Văn Minh (Nữ ký giả);Vua Bảo Đại (Lịch sử và nhân chứng); Vua Lia trong vở kịch cùng tên; Trần Thủ Độ (Trần Thủ Độ); Êrôtxtrát (Vụ án Êrôtxtrát); Trương Ba (Hồn Trương Ba - Da hàng thịt)… cùng nhiều phim truyện nhựa, truyền hình như Nghị Hách (Giông tố); Ba Đức (Đứng trước biển); Trung tá Thi (Huyền thoại người mẹ)…

NSND Trọng Khôi đã cống hiến cho sân khấu Kịch nói Việt Nam đương đại - một loại hình sân khấu từ phương Tây du nhập vào Việt Nam đầu thế kỷ XX - nhưng qua tài năng của anh, lại mang bản sắc sân khấu Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, phong phú, đa dạng và độc đáo - góp phần vào sự phát triển Kịch nói Việt Nam hiện đại của nửa sau thế kỷ XX và thập niên đầu của thế kỷ XXI.

Từ cuối những năm 80 thế kỷ trước, NSND Trọng Khôi là Phó Giám đốc, rồi Giám đốc Nhà hát Kịch Việt Nam cho đến năm 1999; anh được bầu làm Tổng Thư ký, rồi Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam tại Đại hội V (1999-2004), Đại hội VI (2004-2009). Trong hai nhiệm kỳ này, ngoài những đóng góp to lớn cho nền sân khấu cách mạng Việt Nam, thì hoạt động nổi bật nhất, để lại nhiều ấn tượng nhất của NSND Trọng Khôi - đặc biệt là giao lưu và hội nhập quốc tế - đó là các Liên hoan Sân khấu Thử nghiệm quốc tế tại Việt Nam. Chính đó là một trong những điều kiện rất quan trọng để vào năm 2004, Hiệp hội Sân khấu quốc tế (ITI) đã kết nạp Việt Nam trở thành Thành viên chính thức, đồng thời thành lập Trung tâm Hiệp hội Sân khấu quốc tế Việt Nam (viết tắt là Trung tâm ITI Việt Nam), do Nguyễn Trọng Khôi là Giám đốc đầu tiên. Anh còn giành được Huân chương Độc lập Hạng III, nhiều Giải thưởng, Huy chương Vàng tại các Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc, Liên hoan Sân khấu thế giới. Trọng Khôi là một trong những gương mặt nổi tiếng của sân khấu đương đại Việt Nam.

Tròn 5 năm NSND Trọng Khôi thanh thản chia tay “Thánh đường” biểu diễn, chia tay các đồng nghiệp, chia tay những cánh gà sân khấu và hai tấm màn nhung đỏ thắm; mà ở đó, đã thấm đẫm bao nhiêu nước mắt, nụ cười; bao nhiêu niềm vui nỗi buồn của một nghệ sĩ lớn suốt một đời dâng hiến cho Nghệ thuật Sân khấu Việt Nam. Nhưng với riêng nhóm “chân đất” chúng tôi, mãi mãi vẫn còn nguyên đó một Trọng Khôi bình dị, thủy chung, nghĩa tình và luôn biết sống vì người khác! Và câu nói vừa mang tính hài hước, vừa có vẻ cay đắng với cái nghiệp nghệ sĩ - mặt vàng như nghệ mà vẫn còn sĩ - như một ấn tượng để người nghệ sĩ càng cố gắng vượt lên bằng nhân cách của chính mình…

Những dòng tưởng niệm về NSND Trọng Khôi cũng chính là nén tâm nhang để tưởng nhớ những người trong nhóm bạn "chân đất” của chúng tôi là nhà thơ Phùng Quán, nhà thơ Trúc Cương; hai họa sĩ, nhà thơ Chu Hoạch, Tường Vân; nghệ sĩ Thanh Tân - những người ngày ấy với tôi, nay đã thanh thản về cùng cõi lặng… 
NSND Lê Huy Quang
.
.