Nuối tiếc tiếng cồng chiêng Mỹ Thạch

Thứ Ba, 10/10/2017, 08:24
Nói đến cồng chiêng, người ta thường nghĩ ngay đến những người sản xuất ra nó là những nghệ nhân ở làng đúc đồng Phước Kiều (xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Nhưng không, còn một làng cồng chiêng Mỹ Thạnh nằm ở đất võ Bình Định nữa. Khác biệt, cồng chiêng nơi này không đúc mà được gò từ những miếng đồng. Tuy nhiên, đó là chuyện của mấy mươi năm về trước...


“Thương hiệu” cồng chiêng Mỹ Thạnh

Cồng chiêng là nhạc cụ, tài sản quen thuộc gắn liền với đồng bào Tây Nguyên. Nhưng nó lại không phải do họ làm ra. Theo tư liệu, trước đây cồng chiêng Gia lai, Kon Tum chủ yếu lấy từ làng Mỹ Thạnh (xã Nhơn Phúc, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định). Làng nghề nay chỉ còn “vang bóng một thời”.

Ông Nguyễn Văn Tại (71 tuổi) là một thợ gò cồng chiêng có tiếng ở làng Mỹ Thạnh. Giờ hằng ngày chỉ biết phụ giúp con cái khiêng những vỉ bánh tráng vừa mới ra lò đi phơi, đến lúc khô thì lại mang vào. Thường thì đến 60 tuổi, không ai cầm cự nổi với nghề này. Nhưng hồi ấy, ai nấy đều bảo với sức khỏe của ông, có thể làm tới 80 tuổi. Tuy nhiên, khi ông Tại chưa tới tuổi 40 thì làng nghề đã dần vắng khách. Làng cũng bặt luôn tiếng búa.

Cồng chiêng Mỹ Thạnh được gò chứ không phải đúc, nên khó vỡ, âm thanh trong và vang xa. Nguyên liệu làm cồng chiêng có thể là đồng vụn, đồng tấm, đồng vỏ đạn tùy theo từng thời kỳ. Trước tiên người thợ dùng đe, búa dát mỏng đồng ra, sau đó phay tròn đồng lại tùy theo kích cỡ loại cồng chiêng rồi mới gò lên thành hình sản phẩm.

Dùng tay đánh thử, nếu âm thanh phát ra tốt là sản phẩm đã hoàn thiện. Nghề gò cồng chiêng đòi hỏi cao về kỹ thuật, chỗ dày chỗ mỏng là hỏng. Phải gò thật đều thì âm thanh phát ra mới hay. Điều này, đòi hỏi người thợ không chỉ cần kinh nghiệm mà phải có sức khỏe, cả sự kiên trì. Theo ông Tại, một thợ giỏi, mỗi ngày có thể làm ra 1 cồng chiêng loại nhỏ. Để hoàn thành một bộ cồng chiêng thì mất khoảng nửa tháng.

Ông Tại giới thiệu về cồng chiêng Mỹ Thạnh.

Đồng bào Tây Nguyên chơi cồng chiêng nhưng không chế tác được nó, nên họ phải nắn âm cho phù hợp với thị hiếu âm nhạc riêng. Muốn làm được việc này, bà con thường dùng búa đồng chuyên dụng để điều chỉnh độ dày mỏng ở một số điểm trên mặt chiêng cồng. Có điều, trong một làng, thậm chí trong cả một vùng, chỉ có một hoặc vài người có nhiều hiểu biết, có trình độ thẩm âm cao, với đôi tay khéo léo mới có thể làm được.

Những người thợ gò cồng chiêng ở Mỹ Thạnh lại giúp giải quyết được yêu cầu  khác biệt đó. Các chuẩn âm thanh theo sở thích của đồng bào từng vùng thuộc Tây Nguyên được những người thợ nơi đây nhớ nằm lòng..

“Đó là một bí quyết chẳng những bằng kinh nghiệm tích lũy lâu dài, mà còn bằng sự khổ luyện truyền từ đời này qua đời khác mới làm được. Ngoài tôi, bây giờ ở làng còn nhiều người gò cồng chiêng hồi ấy thuộc lòng sở thích chuẩn âm thanh của từng vùng… Nhưng rồi đến cuối thập niên 90 thế kỷ XX, làng nghề  tàn lụi vì chúng tôi gò thủ công chứ không đúc, chỉ dùng nguyên liệu đồng nên bán ra cao hơn các nơi khác. Giá cao thì không có thị trường, bán thấp thì lỗ”, ông Tại nói trong tiếc nuối.

Một thời hưng thịnh

Nghề này có mặt ở làng Mỹ Thạnh từ giữa thế kỷ thứ XIX. Cụ tổ là ông Nguyễn Văn Bảy, một nghệ nhân đúc đồng từ làng nghề Đại Bái (huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Ông Bảy nằm trong số lính thợ tài hoa nhất được tuyển về xây dựng cung đình, đại nội Huế. Về sau do loạn lạc, ông trôi dạt vào Bình Định, rồi xây dựng gia đình, tạo nên nghề gò cồng chiêng ở làng Mỹ Thạnh.

Thời gian đầu, ông Bảy chỉ gò những vật dụng dùng trong nhà, bán cho người dân quanh vùng. Làng Mỹ Thạnh nằm bên dòng sông Côn, lúc bấy giờ giao thông đường thủy còn thịnh nên ông mang các hàng hóa ấy đến các chợ ven sông, có khi ngược lên tận thượng nguồn sông Côn để chào hàng. Sau một lần lên Tây Nguyên, nhận ra nhu cầu cồng chiêng, ông tìm cách chế tác. Sản phẩm của ông được đồng bào Tây Nguyên chấp nhận. Một mình làm không đủ đáp ứng nhu cầu, ông thu nhận thêm học trò.

Người tìm đến học nghề ngày một đông hơn. Sau một thời gian làm cho ông Bảy, tích lũy được kinh nghiệm và vốn liếng, một số thợ đã mở lò riêng và tiếp tục truyền nghề. Làng gò cồng chiêng Mỹ Thạnh dần phát triển, rồi nức tiếng. Thời hoàng kim của làng là từ những năm 50 đến những năm 70 của thế kỷ trước, trong làng có đến gần 20 lò sản xuất cồng chiêng, mỗi lò trung bình từ 7 đến 10 thợ.

Theo ông Nguyễn Văn Cư (53 tuổi, cháu đời thứ tư của ông Bảy), thuở ấy nghề làm cồng chiêng ở làng Mỹ Thạnh rất thịnh vượng. Mỗi cặp cồng chiêng bán sỉ có giá đến 1 lượng vàng. Thương lái mua mang lên Tây Nguyên đổi trâu, đổi bò của đồng bào. Có những cặp cồng chiêng đổi lấy đàn trâu, bò có giá trị đến 2 đến 3 lượng vàng. Thợ có thu nhập đã cao, người buôn bán cồng chiêng kiếm lãi còn nhiều hơn nữa, quanh năm làm không hết việc. Sản phẩm làm ra đến đâu tiêu thụ hết đến đó. “Các cụ bảo, ngày ấy vui lắm, cách xóm trăm mét đã nghe tiếng búa đe, tiếng gò cồng chiêng rộn rịp cả một vùng quê”, ông Cư tâm sự.

Mỹ Thạnh trở thành nơi cung cấp cồng chiêng cho đồng bào miền núi trong tỉnh và khắp Tây Nguyên, rồi bán sang cả Lào và Campuchia. “Có thời trước 1975, hằng tuần cồng chiêng của làng chất đầy các xe Cam Nhông trực chỉ đường quốc lộ 19 ngược Tây Nguyên, sang cả Lào và Campuchia. Các bộ tộc bên các nước bạn rất ưng bụng, họ nói cồng chiêng Mỹ Thạnh đánh lên tiếng nghe ngọt và vang xa, lại không bị nứt nên sử dụng được rất lâu”, ông Tại kể.

Ông Cư giới thiệu về loại đồng dùng để làm cồng chiêng.

Nghe ông Tại kể vậy, tôi thử nhẩm tính, một lò cồng chiêng Mỹ Thạnh trung bình sản xuất mỗi tháng khoảng 10 bộ cồng chiêng thôi, thì mỗi năm đã xuất xưởng khoảng 120 bộ cồng chiêng. Xem ra, số cồng chiêng mà làng nghề Mỹ Thạnh cung cấp cho đồng bào dân tộc quả là một con số khổng lồ.

Ước mơ khôi phục làng nghề

Làng gò cồng chiêng Mỹ Thạnh không cạnh tranh lại với cồng chiêng đúc các nơi khác nên đã “đứt bóng” hẳn từ những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ trước. Thợ tâm huyết nhất với nghề cũng tìm đường khác mưu sinh. Tuy nhiên, nhiều người trong số họ đều bị… nặng tai vì thường xuyên nghe tiếng búa gõ lên đe. Ông Tại nói chắc nịch: “Suốt mấy chục năm, ngày nào cũng như ngày nào, từ sáng đến tối, tiếng búa vỗ lên đe chan chát thường trực bên hai lỗ tai nên không bị ảnh hưởng mới lạ. Nói thật, bây giờ tôi vẫn thèm nghe tiếng chát chúa bên tai như xưa”. Ai cũng bày tỏ ước mong sẽ có ngày nghề gò cồng chiêng trở lại. Thợ trẻ còn lại của làng nghề như ông Cư cũng bày tỏ nếu bây giờ các cấp ngành tạo điều kiện, ví như liên kết với các đơn vị ở Tây Nguyên để tạo đầu ra thì người làng Mỹ Thạnh sẵn sàng khôi phục làng nghề để gìn giữ một nét đẹp truyền thống.

Đang trò chuyện, ông Cư vào dưới bàn thờ tổ mang ra các loại đồ nghề làm cồng chiêng rồi bảo, đã mấy mười năm rồi những chiếc đe sắt, lò bễ, kéo sắt và gần 20 loại búa chuyên dụng này đã có một giấc ngủ dài. Rồi ông chỉ tay vào phía góc nhà, nói: “Còn hai tấm đồng tôi mua 16 triệu đồng từ hồi năm 2009 với hy vọng góp một tiếng cồng chiêng Mỹ Thạnh trong lễ hội cồng chiêng nào đó. Nhưng chúng đã xếp xó bao năm, bởi chẳng có một đơn hàng nào cả”.

Ngậm ngùi, tôi bỗng hình dung một ngày, khi nghề làm cồng chiêng Mỹ Thạnh đã được khôi phục, những chiếc cồng chiêng sẽ là những sản phẩm thủ công bán cho khách du lịch. Mua những chiếc cồng chiêng, du khách sẽ lại được nghe giới thiệu về một làng nghề của người miền xuôi, nhưng đã tạo ra những sản phẩm góp phần làm nên một nét văn hóa rất đậm bản sắc của đồng bào Tây Nguyên.

Phan Nhuận Phin
.
.