Nhà văn Lê Bầu: "Người năng nhặt chặt bị"

Thứ Ba, 31/03/2009, 16:30
Đấy là năm 1962. Theo thông lệ, buổi sáng thứ hai đầu tuần, cả trường tập trung chào cờ. Sau phút sơ kết công việc dạy và học của toàn trường, thầy hiệu trưởng trịnh trọng cầm tập truyện mới xuất bản - tập "Thông reo" - giơ cao cho toàn thể học sinh nom theo.

Thầy hiệu trưởng nói:

- Các em có biết tác giả tập truyện ngắn "Thông reo" này là ai không? Đó là nhà văn Lê Bầu, người từng là học sinh cũ của Trường Hàn Thuyên chúng ta!...

Ánh mắt thầy hiệu trưởng lấp lánh vui và chan chứa tự hào.

Trong mấy trăm học sinh chào cờ bữa đó, có Chu Bá Bình (tên thật của Đỗ Chu), Vũ Công ứng (tên thật của Anh Vũ), Trần Anh Trang, Nguyễn Thanh Kim... mắt tròn xoe ngưỡng mộ.

Ngày đó, đám học trò mê văn chương chúng tôi luôn thần thánh hóa vai trò, sứ mệnh của các nhà văn nhà thơ. Nên tôi như thấy Lê Bầu là một người sớm thành đạt, đem lại vinh quang cho cả chúng tôi, cánh học trò, dù chỉ học qua một thời gian ngắn ở cùng trường...

Thời đó, tôi có đọc thấp thoáng một số truyện ngắn của nhà văn Lê Bầu in trên tạp chí Văn nghệ Quân đội, báo Văn Học. Mãi sau này, vào những năm đầu thập kỷ bảy mươi, tôi mới có dịp gặp ông ở Hà Nội.

Hội Văn nghệ Hà Nội khi ấy còn đóng trụ sở tại phố Hàng Dầu, ngay trong cơ quan Sở Văn hóa. Lê Bầu đang là một nhân viên ở đó. Ông đi cái xe đạp cũ, ăn vận tuềnh toàng, dáng người hơi cũ, nom như một lão nông hơn là nhà văn. Tôi nghĩ, người như thế kia vất vả là phải. Nhưng được cái khi tiếp xúc với ông, ông lại có điệu cười xòa rất thoải mái.

Khi ấy, tôi chưa rõ hết nỗi truân chuyên vất vả của con đường văn nghiệp mà ông phải gồng gánh. Chỉ biết ông là một trong mấy người ở Hội vẫn phải lăn ra viết để kiếm sống. Ông viết báo, cộng tác với nhiều tờ báo, mà xem ra lại toàn cộng tác cho các chuyên mục “Nói theo nghề báo”, thì đó là những mục phụ, chẳng đem lại vinh quang, tiếng tăm gì cho người viết, mà cốt viết để lấy tiền nhuận bút. Mà nhận bút thời đó lại quá còm cõi. Hai đồng. Ba đồng. Họa hoằn lắm mới có báo trả năm đồng bạc cho một mẩu tin, một giai thoại văn học, hoặc một câu đố vui, một nụ cười.

Lê Bầu là một người siêng năng làm việc. Ông là người năng nhặt chặt bị, chịu khó cày cuốc để kiếm cơm. Tờ báo tôi làm khi ấy chẳng có tiếng tăm gì lớn. Đó là tờ báo tuần của một ngành. Ấy vậy, trang cuối bao giờ cũng có một góc nhỏ thư giãn. Đó là câu đố, hoặc nụ cười, hoặc tranh vui, tranh biếm họa.

Ông Lê Bầu đã cộng tác với báo chúng tôi từ ngày đó, với những mục đó. Rồi báo mở ra những chuyên mục mang tính khảo cứu "Chuyện các làng nghề", "Chuyện các tổ nghề"... Những mục này, bài vở có thể kéo dài trên dưới ngàn chữ.

Ông Lê Bầu trở thành cộng tác viên tích cực của chuyên mục của chúng tôi. Dạo đó ông có cái máy chữ cổ lỗ, tự tay ông mổ cò đánh bài. Giấy đánh bài toàn là giấy tiết kiệm, có khi đã dùng một mặt, hoặc giấy seo thủ công dày, mặt nhẵn mặt nhám. Cái máy cũ, chữ nét đậm nét nhạt, dưới góc bài thường ký tên P. H hoặc Phan Hà.

Từng gặp "tai nạn nghề nghiệp", mà hoàn cảnh gia đình ông lại quá ngặt nghèo, Lê Bầu đã phải lao vào viết kiếm sống là phải. Bạn bè ví ông như cái đầu tàu cũ nát vẫn phải cố phì phì vận hành, để kéo theo mười mấy toa tàu đói khát. Mười mấy cái toa tàu há mồm ở Bắc Giang, hàng tháng vẫn chờ sự tiếp tế của nhà văn.

*

Sau đận ở tá túc tại đền Ngọc Sơn, Lê Bầu được cơ quan phân cho căn phòng 105 Phùng Hưng. Có thể coi là sự đổi đời với ông, mặc dù căn phòng nhỏ lại được chia đôi bằng vách cót che chắn! Người ở nửa phòng còn lại chung vách liếp với Lê Bầu, là nhà thơ Huyền Tâm, có bài "Thóc lép qua cầu gió bay..." được phổ nhạc rất hay. Cả hai ông đều sống độc thân.

Ông Huyền Tâm ít nói, còn ông Lê Bầu trời phú cho cái tính bô lô ba la, như để che lấp sự cô đơn của mình. Ông Huyền Tâm thì thường nằm phủ phục ra chiếu mà viết ca dao. Còn ông Lê Bầu thì có "tân thời" hơn, ông dùng cái máy chữ cũ xin được của ai, đem về mổ cò viết văn.

Ông Lê Bầu có kê cái bàn nhỏ gỗ tạp ở ngay sát cửa sổ. Cái máy chữ cổ lỗ ông đặt ở đấy, để hành nghề. Bạn bè qua phố nom thấy ông lụi hụi mổ cò, là lại sà vào chơi. Tiện đường, cũng là cái khổ vì phải tiếp khách liên miên tối ngày. Ông là người tốt tính, sởi lởi, vì vậy, bất kể thân hoặc sơ, ai cũng hay ghé vào tào lao góp đôi ba câu chuyện, hoặc làm chén nước chè nhạt.

 Tôi thấy ái ngại cho ông, vì ông bị chia vụn thời gian quá thể. Có khi vừa ngồi gõ máy chữ chưa đủ dòng, lại có ông bạn vào chơi. Căn phòng chật, có lúc năm bảy người bạn kéo vào, ngồi kín cả cái chiếu cũ trải nền nhà tiếp khách. Ông tốt tính cứ cười cười thôi, chứ tôi hiểu ruột gan ông đang sôi lên vì chưa kịp bài để nộp báo.

Chưa có bài cho báo, là không có tiền tiêu. Cái đời sống cơm áo gạo tiền cứ thúc đít ông, thôi thì chống đói trước mắt hơn là lo cái vĩ đại cao sang bất tử?! Tôi đã chứng kiến cảnh ông vừa bắc bếp nấu cơm, vừa mổ cò máy chữ. Cơm là chính, thức ăn là phụ. Mà thức ăn thường là lạc rang mặn, hoặc nồi thịt kho lẫn dừa cùi. Rau đại đa số là bí xanh, bí đỏ và mướp.

Một lần tôi đến thăm ông, đúng lúc ông đang chuẩn bị bữa cơm. Ông lúi cúi trông nồi cơm bé bằng cái bát chiết yêu đặt trên bếp dầu xó nhà, một tay đang gọt vỏ bí xanh, mắt thì đang dán vào trang sách chữ Trung Quốc. Thì ra vừa nấu cơm, ông vừa tranh thủ đọc sách. Tôi buột miệng hỏi:

- Bác nghiện bí xanh hay sao, mà bữa nào em cũng thấy bác dùng món này?

Ông trả lời:

- Đâu phải. Nhiều bữa ớn đến tận cổ. Nhưng vẫn dùng nó, vì bí xanh rửa tốn ít nước. Thèm món rau muống luộc lắm. Nhưng rửa mớ rau muống là phải tốn ít ra là một xô nước. Cậu biết không, một vài xô nước sạch, ở đây là quý lắm.

Chả là nơi ông ở rất hiếm nước dùng. Đã vậy, vòi nước chung ở mãi sân nhà trong, muốn lấy nước hoặc đi vệ sinh lại phải vòng vào tít ngõ sâu, mỗi lần đi lại phải cửa khóa cửa mở đến là cách rách.

Tới dạo cháy chợ Đồng Xuân, "cơ may" lại đến với ông. Chả là chợ tạm họp ở trước cửa nhà ông. Chủ các cửa hàng thuê nhà ông để biến thành kho hàng vải. Hàng tháng họ trả tiền thuê nhà, ông lại dành dụm gói ghém chờ dịp về Bắc Giang tiếp tế cho mấy mẹ con trên ấy. Cái bàn đặt máy chữ được dọn tít vào góc trong, cái chiếu tiếp khách được cuốn lên để xếp vải.

Thôi thì đủ loại vải len dạ, vải tơ tằm đẹp và mốt, như vây bọc lấy ông. Nhưng nhà văn Lê Bầu vẫn lếch thếch bộ quần áo ngủ màu gụ đã bạc thếch, ngồi lọ mọ gõ máy chữ ở cuối phòng. Những người thuê gửi hàng tại nhà ông, họ quá yên tâm, dù hàng ngổn ngang, mà chẳng thất thoát mảy may tẹo nào.

Có tiền thuê nhà, đỡ một phần viết báo kiếm cơm, nhà văn Lê Bầu dành thời gian ra tấm ra món để dịch sách, để viết văn. Ông dịch "Ôsin", dịch "Tể tướng lưng gù", "Thị trấn phù dung", dịch "Cổ án Trung Hoa", dịch "Hoài niệm sói", "Quỷ thành", " Tần Xoang"... rồi dịch tản văn của Giả Bình Ao. Nói tới mảng văn học Trung Quốc thời gian qua, là phải nói tới sự đóng góp của Lê Bầu.

Về sáng tác, ông đã cho ra đời mấy tập sách: "Những năm tháng trôi qua"; "Hai người buồng bên kia", "Ngã ba cô đơn". Hình như sự cô đơn thấm trong người ông, ông muốn giấu, nhưng có lúc vẫn lộ ra. Tôi đã vô tình chứng kiến cảnh ông một mình ngồi xếp bằng tròn trên tấm chiếu cũ, hút vã thuốc lá. Đấy là cái phút cô liêu thoáng trên khuôn mặt hay cười của ông.

Có thể ông nghĩ về vợ con ở Bắc Giang trên kia, hoặc nghĩ về sự thăng trầm gì đó của đời mình. Văn chương chưa phải đã đem lại vinh quang lớn lao gì cho ông. Ông thấy đó là cái nghiệp của đời mình. Sách sáng tác, sách dịch đã mấy chục đầu sách rồi đấy, nhưng hình như ông vẫn cảm thấy sự chơi vơi, thăm thẳm xa xôi...

Ông muốn viết một cái gì hơn nữa những cái ông đã viết. Ông viết và ông lại không bằng lòng với chính mình. Bạn bè thân từ thuở hàn vi, nay vẫn thường gặp gỡ nhau. Ông Bùi Ngọc Tấn, sau đã có "Rừng xưa xanh lá". Nguyễn Xuân Khánh có "Hồ Quý Ly". Mình phải làm gì? Ông suy nghĩ và dằn vặt.

Con đường từ Hà Nội lên Bắc Giang không phải là xa. Nhưng cũng đôi ba tháng ông mới trở về thăm nếp nhà nhỏ ở xóm Thùng Đấu ven thị ấy được. Mười mấy "toa tàu" kéo theo, nay đã có phần đỡ gánh, ấy vậy, nó vẫn níu buộc ông.

Có lần vô tình tôi buột miệng hỏi ông: "Sao không chuyển gia đình về Hà Nội sinh sống, cho ông đỡ phần vất vả?". Ông buồn bã trả lời: "Về làm sao được. Về sống ra sao? Thôi số mình nó thế, một mình và một mình !". Tôi ân hận vì chạm vào sự cô liêu của ông. Cuộc sống mỗi người một số phận. Đã mấy chục năm nay ông quen sống một mình. Ông không có vui thú đùm đúm quán xá bia bọt, không lăng nhăng trăng gió.

Cũng có thể ông có thích, song phải ghìm lại những ý thích đó. Vì đời sống của ông còn lắm nỗi chật vật. Cũng có một vài người phụ nữ mà tôi đã gặp ở nhà ông, nom họ hiền thục lắm, thương cảm cảnh sống độc thân của ông, họ tới khâu cho ông miếng vá ở vai áo, ống quần, hoặc tiện qua chợ ghé mua dùm ông mớ rau, lạng thịt. Ấy cũng chỉ là quý nhau thế thôi, chẳng hơn gì thế. Họ đi rồi, ông lại đơn độc còng lưng bên cái máy chữ, ông chỉ có niềm vui làm việc. Làm việc, để lấp đậy sự cô đơn của mình…

Bây giờ thì mọi thứ buồn vui đã lánh xa ông rồi…

Vũ Từ Trang
.
.