Nhà văn Hà Khánh Linh: Chạy đua cùng thời gian

Thứ Tư, 10/09/2008, 14:30
Hà Khánh Linh có 40 năm viết văn, làm báo, đến nay chị đã xuất bản 17 tác phẩm gồm tiểu thuyết, thơ, truyện ngắn, bút ký… chứng tỏ sức bền của một ngòi bút. Chị say sưa viết những cuốn sách mới. Chị viết như chạy đua với thời gian, chạy đua với tuổi.

Cái hồi ở Trường Sơn xưa, cô gái Huế xinh đẹp Nguyễn Khoa Như ý ở đơn vị nào thì lãnh đạo lo lắng lắm. Người ta đồn "Cô ấy đi làm cách mạng mà không thể ăn được cơm, cứ phải bơ sữa thôi!". Mặc dù cô đã bỏ hết bộ lốt thành phố, mặc bà ba đen, đi dép lốp, đeo balô lội suốt băng rừng như người khác.

Lại chuyện nữa: Có người đẹp thì cán bộ, bộ đội đóng quân gần đó thường tìm cách lui tới thăm hỏi. Nhiều người lui tới thì cơ quan dễ bị lộ, địch sẽ trút bom xuống. Một lần Bí thư Chi bộ gọi Như ý đến bảo: "Các anh tính bàn với em là nên đổi tên đi thôi…". "Cơ quan mình hiện có ba nữ đâu phải một mình em?". "Biết vậy nhưng em nhìn coi, người ta cứ hỏi thăm em, muốn làm quen với em, thư từ, quà cáp… đủ điều!". "Thôi được, các anh cứ gọi em là Linh". "Gì Linh?". "Khánh Linh. Hà Khánh Linh". Thế là cái tên Hà Khánh Linh ra đời từ đó. Chị giải thích: "Trong chữ Hán, Hà là hoa sen - biểu tượng của sự tinh khiết. Linh là loài hoa linh thoại. Trong kinh Pháp Hoa phật nói hoa linh thoại là hoa quý hiếm, hàng ngàn năm mới nở một lần. Khi có cả hai loại hoa Sen và Linh thoại cùng nở, ắt có khánh hỷ". 

Hà Khánh Linh có 40 năm viết văn, làm báo, đến nay chị đã xuất bản 17 tác phẩm gồm tiểu thuyết, thơ, truyện ngắn, bút ký… chứng tỏ sức bền của một ngòi bút.

Chị quê ở thôn Niêm, làng Ưu Điềm, ở phía bắc Huế. Nguyễn Khoa là một danh gia vọng tộc ở Thừa Thiên - Huế, đồng hành với vua chúa Nguyễn suốt 300 trăm năm Huế - Phú Xuân. Dòng họ danh giá ấy trải qua nhiều thế hệ, thế hệ nào cũng có nhiều người làm quan lớn, nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng.

Năm 1965, lúc 20 tuổi, đang học dự bị Đại học Khoa học ở Sài Gòn, chị đã viết tiểu thuyết "Trắng canh" với bút hiệu Linh Lan Khai, nói về cuộc chiến đấu chống Mỹ của tuổi trẻ đô thị miền Nam. Tiểu thuyết được viết trên cuốn vở học trò 100 trang chép tay rất nắn nót. Một năm sau cô nữ sinh Sài Gòn ấy đã bỏ học nửa chừng để tham gia quân giải phóng, mang theo cuốn tiểu thuyết lên rừng và  gửi theo đường giao liên Trường Sơn ra miền Bắc. 

Sau lần gặp một nhà thơ đang hành quân vào B5, Hà Khánh Linh biết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình đã đến Hà Nội, nhưng "còn lỏng lẻo, chưa đạt". Nghe tin bản thảo mình đã đến Hà Nội, Hà Khánh Linh hưng phấn muốn bắt tay viết ngay một cái gì đó. Chị nhặt nhạnh chắp vá từng mảnh giấy để viết một cuốn tiểu thuyết mới về cuộc chiến đấu nóng bỏng, sục sôi của thanh niên đô thị miền Nam những năm 1964 - 1965, khi chị đang ở Sài Gòn.

Chị lấy tên nhân vật chính là cô Thúy đặt tựa cho tiểu thuyết. Chị viết sau trận bom B52, viết sau những ngày phát rẫy trỉa lúa để chống đói, viết mỗi khi một ít. Chừng được vài chục trang thì hết cả giấy, chị đành cuộn tròn bản thảo cất kỹ vào balô. Rồi một trận bom B52 địch rải xuống khu rừng nơi cơ quan đóng. Chị cùng mọi người lao xuống hầm trú ẩn, đất đá vùi toàn thân, nghẹn cổ họng và tức ngực, máu mũi chảy ra… Trận bom ấy balô của chị bị vùi lấp ở đâu không biết, trong đó có bản thảo tiểu thuyết "Thúy" vừa mới viết được mấy chục trang. 

Nhờ xin được giấy bút ở các anh bộ đội, chị viết lại "Thúy" từ đầu. Đang viết dở thì chị chuyển về làm phóng viên ở Đài Phát thanh Huế giải phóng do nhạc sĩ Trần Hoàn làm Giám đốc. Những ngày đó hầu hết anh em kiệt sức vì thiếu đói và bệnh tật. Hoàng Phủ Ngọc Tường hay đọc mấy câu ca bắt chước lời một bài hát: Ở tận trong thành em có biết/ Trên non cao cũng có người Kinh/ Anh mãi gọi với lòng tha thiết/ Hình Khánh La ơi Hà Khánh Linh. 

Những ngày chuẩn bị Tổng tấn công Mậu thân 1968, máy bay địch bắn phá vô cùng ác liệt. Đài không phát thanh được. Nhiều người bị sốt rét quật ngã. Đói khát, bệnh tật, chị không thể tiếp tục viết tiểu thuyết "Thúy" được nữa. Mãi đến năm 1971, khi được ra miền Bắc chữa bệnh ở Bệnh viện E Hà Nội rồi chuyển về Viện điều dưỡng K55 ở Bắc Ninh, trong lúc chờ đợi trở lại chiến trường, chị đưa tiểu thuyết "Thúy" ra viết tiếp.

Vì ở viện điều dưỡng không có bàn để viết, chị phải ngồi tựa vào tường, ngồi co chân lại kê tập giấy  vở lên đầu gối để viết. 9 giờ tối là giờ tắt điện chị lại thắp đèn cầy cặm cụi viết. Có khi viết đến sáng. Chị viết xong tiểu thuyết mà mọi người trong Viện điều dưỡng không hề hay biết. Thấy chị viết đêm đêm họ cho là viết thư cho bạn bè.

Năm 1973, tiểu thuyết "Thúy" đã được NXB Giải phóng in, gây được ấn tượng tốt đẹp với độc giả miền Bắc và vùng giải phóng miền Nam những năm sau đó. "Thúy" là một trong số rất ít những cuốn tiểu thuyết dựng lại phong trào đấu tranh của đồng bào các đô thị miền Nam trong chiến tranh chống Mỹ.

Từ đó đến nay chị say sưa viết tiếp những cuốn sách mới. Chị viết như chạy đua với thời gian, chạy đua với tuổi. Tôi đến thăm nhà, thấy trên bàn viết của chị bày ra chật kín những trang tư liệu về chủ đề gì, tức là chị đang viết truyện ngắn, tiểu thuyết về chuyện đó. Đó là cách để buộc mình phải luôn nghĩ tới cái đang nghĩ, đang tìm, đang viết. Không máy tính, không máy chữ, cứ viết tay bằng bút bi chi chít từng trang cần mẫn. Thế mà tốc độ sách xuất bản của Hà Khánh Linh thuộc lại nhanh nhất trong các nhà văn ở Huế. Cứ một vài năm một tác phẩm ra đời. Có năm, như năm 1999 chị cho xuất bản cuốn tiểu thuyết "Con gái người cung nữ" và tập truyện ngắn "Vũng Chân mây".  

Từ nhiều năm nay nhà văn Hà Khánh Linh ở một mình trong một căn nhà xây ở hẻm đường Chế Lan Viên, Huế. Hai đứa con lớn lên đều đi làm và lập gia đình ở xa. Cách đây ba năm bạn bè bỗng nhiên thấy xuất hiện một đứa bé dễ thương trong nhà chị. Chị cho biết cháu là con của một cô bạn cũ của con trai mình. Cô ấy có thai ngoài ý muốn, định phá, nhưng chị đã khuyên cô giữ cái thai, tìm cách  nuôi giấu cô gái cho đến ngày sinh nở, rồi đặt tên cho cháu.

Sau đó, Hà Khánh Linh đã ẵm nuôi đứa bé từ ấy đến nay như bà nuôi cháu. Bây giờ cháu đã hai tuổi rưỡi rồi. Chị nuôi cháu Bình Nghi (tên cháu bé) theo tiếng gọi của lòng từ bi nhà Phật. Chị lo lắng chăm chút cho cháu từ bữa ăn giấc ngủ, áo quần mũ mão đẹp đẽ như một người mẹ nuôi con thơ. Chị sắm cái ghế để chở cháu đi nhà trẻ. Mỗi khi đi thực tế sang tác hay công tác xa, chị lại tha cháu theo cùng.

Mới đây, Câu lạc bộ Nhà báo hưu trí Huế tổ chức ra Hà Nội thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bé Bình Nghi cũng được đi với bà. Và bé đã được cùng bà ngồi bên Đại tướng kính yêu. Hình như số phận đã giao đứa trẻ đó cho Hà Khánh Linh để chia sẻ niềm cô đơn thường trực của người cầm bút. 

Nhắc đến bé Bình Nghi, lại nhớ thời gian 1982, Hà Khánh Linh bị một cú sốc lớn. Chị phát hiện ra tình cảm vợ chồng không còn mặn nồng nữa. Đau khổ, dằn vặt rồi cuối cùng là li dị. Chị đưa hai đứa con nhỏ Linh Kha và Linh Nguyên về ở trong một căn phòng 16 mét vuông chật chội, ẩm thấp, ngột ngạt, là tầng hầm của Cơ quan Hội Văn nghệ tỉnh.

Thời kỳ bao cấp đó, cả nước ăn bo bo thay gạo; chị lại có bệnh tim, lại đang đau đớn chuyện đời, nên vừa nuôi con vừa viết văn mới là thử thách gay cấn hàng ngày. Mỗi lần đi thực tế sáng tác lại phải gửi nhờ người khác chăm con. Dạo đó lại chẳng có điện thoại để bàn hay di động gì cả, nên đêm ngủ nơi đất khách nôn nao nhớ con nhỏ mà không biết làm sao được.

Năm 1984, Hà Khánh Linh đang ở trong tâm trạng "chán đàn ông", "ghét đàn ông", mặc dù chị đang ở độ tuổi chín của nhan sắc, cũng là lúc nhà văn Phùng Quán… về thăm Huế. Lần đầu tiếp xúc với người phụ nữ Huế xinh đẹp, đài các, lại là nhà văn, Phùng Quán bị "thần sét ái tình" đánh gục. Ông yêu Hà Khánh Linh say đắm, đúng hơn là cuồng si. Còn Hà Khánh Linh thì rất gìn giữ, chỉ ứng xử như một người em, người bạn.

Chính mối tình cuồng si đơn phương, đau khổ vì không được "yêu lại" ấy làm khơi dậy trong Phùng Quán nguồn mạch thơ mới. Những ngày tháng ấy, Phùng Quán đã viết “thiên tiểu thuyết thơ tình 13 chương viết trên giấy có kẻ dòng"  gọi là "Trăng Hoàng Cung".  12 năm sau khi Phùng Quán mất, Hà Khánh Linh có tự tuyện "Phùng Quán viết Trăng Hoàng Cung" (2007). Đó là sự đồng điệu, đồng cảm. Cũng trong tập sách này, lần đầu tiên chị cho công bố bài thơ nhan đề là "Hoang tưởng", với những đoạn xót xa, chân tình: Anh lịm tắt giữa mùa đông Hà Nội/ Bỏ lại em / Bỏ lại TRĂNG HOÀNG CUNG/ Với những cơn mưa dầm xứ Huế/ Bỏ lại cả sự phi lý/  Khi anh đòi yêu em/  Và đau khổ hờn ghen…

Hà Khánh Linh tâm sự: "Tôi không coi công việc sáng tác văn học là một "nghề", mà là một cách sống, một thái độ ứng xử, cũng như tôi cũng đã từng nói đấy chỉ là cuộc chơi".  Và  chị đã miệt mài với cây bút và trang viết với "cuộc chơi văn chương" của mình hơn 40 năm nay. Hà Khánh Linh là một trong những cây bút nữ bút lực dồi dào và có nhiều thành công ở đất Cố Đô cũng như ở miền Trung hiện nay. Vâng, người con gái Kinh đô cũ Hà Khánh Linh là người không đánh trống mà lên men đời bằng những áng văn chương và cả bằng tính cách của mình...

Ngô Minh -VNCA86
.
.