Nhà thơ Quang Dũng và "bí quyết dưỡng sinh"

Thứ Năm, 18/12/2008, 16:00
Nhà thơ Quang Dũng qua đời ngày 14/10/1988, đến nay vừa hai mươi năm. Đám tang ông được cử hành tại Nhà xuất bản Văn học, 49 Trần Hưng Đạo, Hà Nội, nhưng là ở mặt quay ra đường Hàng Bài, nơi có một cái sân nhỏ ít khi được dùng đến. Buổi ông "về đất" là một buổi chiều rất oi ả, tôi có đến dự và không hiểu vì sao hôm ấy trời lại mưa to thế, đúng lúc đoàn xe tang vừa khởi hành được một đoạn!

"Số" nhà thơ Quang Dũng, nếu đúng là có một cái số như vậy cho mỗi người, thì phải gọi là vất vả. Có thể cái đói, cái khổ của ông vẫn thường được nói đến trong các giai thoại, nhưng âm hưởng chung về Quang Dũng giờ đây là một cái gì đó thật lớn lao sang trọng.

Riêng với tôi, ông là một giọng thơ gồm những chữ "h": hào hoa, hào hùng, hào sảng. Mỗi khi nghĩ đến ông, trong tôi hay lẫn lộn hình ảnh một Quang Dũng hơi cúi xuống co chân cởi giày ba ta, để lộ ra bên trên vai áo chiếc cầu vai vểnh lên một cách ngang tàng, dù ông không muốn thế...

Tôi biết nhà thơ Quang Dũng đầu tiên là ở nơi sơ tán. Hồi Mỹ ném bom phá hoại miền Bắc, tôi theo cơ quan mẹ sơ tán về vùng đất Đường Lâm thuộc Sơn Tây, (nay là Hà Nội). Mẹ tôi làm ở Nhà xuất bản Văn học, cùng cơ quan với bác Quang Dũng.

Bà làm thủ quỹ kiêm đếm chữ, bác Quang Dũng làm biên tập. Ấy là tôi nghe thế, chứ biên tập là thế nào tôi cũng không biết, vì nhà tôi cũng như nhà các bác các chú khác trong cơ quan mỗi gia đình sơ tán về một nhà dân, từ sinh hoạt đến công việc của mỗi cán bộ nhân viên trong cơ quan đều khép kín nơi nhà dân đó.

Bấy giờ ở phía sau chùa Mía thôn Mông Phụ có nhà cụ Toại, một cụ già rất yêu văn nghệ. Nhà thơ Ngô Quân Miện và nhà thơ Quang Dũng vẫn hay đến chơi nhà cụ và xem đoàn chèo Hà Tây diễn tập ở đó.

Đến bây giờ tôi vẫn nhớ nhiều đến cây dâm bụt mọc ở bức tường đầu nhà, lá xanh bông đỏ khi có nắng chiếu vào thì ánh lên làm tươi cả căn nhà khang trang được xây bằng đá tổ ong của cụ Toại. Sân, hè luôn được quét tước sạch sẽ, tất cả toát lên một cảm giác gọn ghẽ, phong quang. Bác Quang Dũng hay bắc giá vẽ dưới bức tường ấy, đứng ngay trên sân vẽ.

Mỗi khi bác Quang Dũng sang vẽ, bọn trẻ con chúng tôi kéo đến xem ngay. (Không hiểu sao lũ chúng tôi thính thế). Quả là trông bác Quang Dũng vẽ thích thật. Bác người cao lớn, nhưng cử chỉ thật từ tốn, khoan thai. Bác chăm chú tập trung vào bức vẽ, không ngừng đưa bút quệt quệt phết phết, thỉnh thoảng lại đứng lui ra ngắm nghía, miệng lúc nào cũng như có nét cười, nhất nhất ai hỏi gì, nói gì đều tham gia được ngay.

Tôi không nhớ lắm bác Quang Dũng vẽ gì, đẹp xấu ra sao, nhưng chắc chắn đó là những bức tranh phong cảnh quanh vùng như tôi có thể cảm nhận được qua những cảnh sắc thân quen, và nhất là màu sắc thì thiên về gam nâu vàng như màu chủ đạo của vùng đất Đường Lâm khi ấy.

Chúng tôi cũng không hỏi bác vẽ để làm gì. Tôi nghĩ, với bác, làm thơ, vẽ, múa kiếm... đều là những việc hoàn toàn tự nhiên, như người ta sinh ra đã là như vậy, đến ăn nữa thì lại càng là việc tự nhiên, nhất là khi người ta lúc nào cũng... thiếu thiếu!...

Năm 1978, tôi tốt nghiệp đại học ở Rumani về nước. Mẹ tôi cũng vừa được cơ quan cho nghỉ hưu. Từ đấy, tôi ít có dịp sang cơ quan chơi, nên suốt một thời gian dài không gặp lại bác Quang Dũng cũng như nhiều các bác, các chú khác mà tôi quý mến.

Thế nên tôi đã rất ngạc nhiên khi mấy năm sau, một hôm thấy bác Quang Dũng đến chơi. Bác đến, không hề báo trước, vì thế càng khiến chúng tôi ngạc nhiên. Không biết bác có nhận thấy vẻ lúng túng của chúng tôi không, nhưng trông cung cách bác, rõ là bác rất vui khi đến thăm một đồng nghiệp cũ. Sau mấy năm không gặp, tôi thấy bác có phần già đi, dễ nhận ra lắm ở hàng ria mép đã ngả bạc.

Nhưng cử chỉ của bác thì vẫn nhanh nhẹn, tự nhiên như xưa. Bấy giờ còn đang thời bao cấp, thứ gì cũng khan hiếm, nhất là lương thực, thực phẩm lại càng thiếu. Nhà tôi, mà các nhà khác cũng thế thôi, phải xoay xỏa đủ cách để lo liệu bữa ăn hàng ngày.

Chẳng hạn chế biến bo bo sao cho dễ ăn, nhưng tốt nhất là đổi sang mì, sang gạo, dù có hao một chút nhưng còn dễ tiêu. Hay có một số người thì áp dụng phương pháp uống thật nhiều nước vào lúc sáng sớm, nghe nói tốt lắm...

Bác Quang Dũng không có ý kiến gì về những mẹo mực ấy. Bác chỉ khuyên mẹ tôi nên nhai thật kỹ khi ăn. Nhai càng kỹ càng tốt, vừa đỡ hại dạ dày, vừa đỡ tốn cơm. Đã từ lâu bác áp dụng phương pháp này. Trước kia phải ăn ba bát, nay chỉ cần hai. Nhai kỹ, chị cứ thử mà xem, bác nói với mẹ tôi, sẽ thấy cơm rất ngọt; chả cần gạo mới gì gì, cứ cái gạo mậu dịch ấy nấu lên, nhai thật kỹ, khắc thấy ngon ngay. Nhà tôi đỡ hẳn cái khoản gạo nhờ cách ấy đấy...

Tôi nghe bác nói rất hào hứng, nhưng trong thâm tâm không mấy quan tâm. Đang tuổi thanh niên, ăn nhanh như thổi, tôi theo cách ấy sao được. Mẹ tôi, tôi nghĩ, cũng khó có thể tán đồng. Bà lúc nào cũng chỉ sợ con ăn ít sinh ốm đau, làm sao bà dám "phiêu lưu" áp dụng phương pháp ấy. Chi bằng trong nhà có cái gì dự trữ mang ra bán, chứ nhất định không thể thiếu ăn, phương châm ấy của bà tôi biết lắm.

Dẫu sao, nhiệt tình của bác Quang Dũng khiến chúng tôi hết sức cảm động. Mẹ tôi hỏi lại bác dạo này thế nào. Bác cho biết vừa tìm ra một việc hay lắm. Nhà bác ở phố Bà Triệu, không xa công viên Thống nhất là bao. Chiều chiều, bác và mấy con lại vào công viên, ngồi chơi hóng gió, cho bõ những lúc ở trong nhà chật chội, tù túng.

Nhưng cái chính là sau đó quét lá đem về làm chất đốt. Công viên có nhiều cây, lá rụng nhiều, chiều nào mấy bố con cũng quét được hàng bao tải lá khô. Vừa vui vẻ, vừa được vận động chân tay, lại vừa được việc. Thỉnh thoảng cũng có anh bảo vệ nguyên tắc, gây khó dễ. Nhưng thường là họ bỏ qua cho. Vả lại, mình quét thế chỉ càng sạch công viên chứ sao. Từ hồi ấy đến giờ, nhà bác đỡ hẳn nạn thiếu chất đốt...

Trò chuyện với mẹ con tôi hồi lâu, bác Quang Dũng đứng dậy ra về, xỏ lại đôi giày ba ta, tôi hỏi bác còn đi đâu nữa không thì bác bảo: "Về thôi. Bây giờ vào công viên thì hơi muộn, tối quá cũng không trông thấy gì mà quét...".

Hóa ra, nếu không phải việc đến thăm mẹ tôi, bác Quang Dũng đã vào công viên rồi. Vừa để hít thở không khí trong lành (hay ăn "ốc" - nghĩa là hít khí ốc-xy giữa trời, theo lối nói vui của bác), vừa để quét lá mang về làm chất đốt cho bác gái, thật là một công đôi việc...

Nguyễn Huy Thắng
.
.