Nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn: Trong hoàng hôn lặng lẽ

Thứ Năm, 27/08/2009, 11:00
Tôi lần lữa cầm điện thoại gọi cho nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn. Gọi di động, ông không nghe máy, tôi gọi số nhà riêng thì gặp vợ ông. Bà có vẻ lưỡng lự khi biết tôi có ý định đến thăm ông. Sau thời gian nghỉ hưu, về nhà, ông thường giấu mình trong phòng văn, ít chuyện trò. Đôi khi trong gia đình, những câu chuyện cứ thưa dần. Nhiều lúc ông ngồi ở nhà mà tâm trí như phiêu du ở tận đẩu đâu...

Nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn sinh năm 1949 tại Hà Nội. Tốt nghiệp trường Đại học Kinh tế quốc dân, ra trường ông về công tác tại phòng Kế hoạch - Sở Xây dựng Hòa Bình, một công việc không liên quan đến văn học. Giờ nghĩ lại, Nguyễn Hoàng Sơn vẫn cho rằng, văn chương đã gắn với ông như một định mệnh khó rời.

Hồi đó, để biểu dương những thành tích về công đoàn, Nguyễn Hoàng Sơn đã đại diện cơ quan viết bài gửi báo. Khi đã quen với cái tên Nguyễn Hoàng Sơn, ông Hoàng Phong - Trưởng ban biên tập báo Tiền Phong hồi đó đã đích thân viết thư tay mời Nguyễn Hoàng Sơn về làm việc tại báo.

Nguyễn Hoàng Sơn bảo rằng, đến nay ông vẫn còn nhớ như in cái cảm giác bủn rủn chân tay khi đứng tại văn phòng ông Trưởng Ty để nhận quyết định thuyên chuyển công tác, vì sau chữ ký ấy, Nguyễn Hoàng Sơn sẽ không thuộc về cái nơi đã mang lại thu nhập để ông lo cho gia đình, cho dù nó không nhiều. Trong khi trước mắt ông là một chân trời mênh mông vô định về nghiệp văn, nghiệp báo mà ông chưa tưởng tượng ra được.

Thời đó, kiếm được một chỗ làm ổn định đã may mắn lắm rồi, thay đổi là một sự mạo hiểm. Phía trước sự lựa chọn có thể là một cánh cửa mới đầy rộng mở với chàng thanh niên 27 tuổi, nhưng cũng có thể ngược lại. Hồi ấy, vợ ông khi biết tin đã khuyên ông hay là... thôi ở lại? Nhưng ông đã quyết định chọn nghề báo.

Nguyễn Hoàng Sơn là một tấm gương về tự học. Ông đọc đủ các sách Tây, Tàu và đọc đến đâu nhớ đến đấy. Ông luôn xác định, nghiệp văn, nghiệp báo đầy trắc trở này khó với cả "con nhà nòi", nói gì đến ông, một kẻ đi ngang đầy háo hức và âu lo.

Sau khi nhận tờ quyết định thuyên chuyển công tác, hàng ngày, Nguyễn Hoàng Sơn đạp xe vài chục cây số từ tòa soạn về nhà, trong lòng phơi phới vì "máu" làm văn, làm báo trong ông như đã được khơi nguồn. Những bài thơ đầu tiên của ông mang đậm dấu ấn tình yêu cuộc sống. Một trong những bài thơ đầu tiên ấy đã nhận được Giải khuyến khích của Báo Văn nghệ (bài thơ "Đi trong đêm thị xã" viết năm 1973).

Nguyễn Hoàng Sơn vẫn nhớ, sau khi nhận giải thưởng, Ban Tổ chức mời đi ăn liên hoan, ông đã được ngồi cùng mâm với nhà thơ Xuân Diệu. Được ngồi đàm đạo với "tượng đài Thơ Mới" càng khiến cho cõi thơ thêm quyến rũ ông. Nguyễn Hoàng Sơn nhận ra rằng, sống trên đời ai cũng cần có một nghề. Ông chọn nghề làm văn, làm báo không chỉ vì sở thích mà như là duyên nợ. Ông muốn mình phải tinh thông trong cái nghề đã chọn và mong muốn được sống không đến nỗi xo rụi bằng nghề đó.

Sau này, khi chuyển sang lĩnh vực phê bình văn học, ông cũng đã thể hiện một giọng văn láu lỉnh, khôn ngoan, nói có trước có sau, có đầu có cuối. Văn phong của Nguyễn Hoàng Sơn có sự kính trên nhường dưới, nhưng trước sự "hoắng" thì ông cũng "đàn anh", "kẻ cả".

Trên văn đàn Nguyễn Hoàng Sơn sắc sảo bao nhiêu thì ngoài đời, ông "vụng" bấy nhiêu. Hồi vợ ông mới sinh con đầu lòng, ông bà nội, ngoại chưa ai đến kịp để chăm sóc, vợ ông nhờ ông ra chợ mua mớ rau muống và một con cá quả để về làm cơm. Ông ậm ừ đạp xe đi từ lúc 8h sáng cho đến 2h chiều mới về. Về đến nhà thì con cá đã bị chết ươn treo lủng lẳng trên ghi đông xe đạp, còn mớ rau muống thì không có (và ông cũng không mua một loại rau nào khác thay thế). Vợ hỏi, sao ông đi chợ lâu thế thì ông hồn nhiên: "Anh đang đi thì gặp ông bạn thơ, định ngồi dăm ba phút uống vài chén rượu, nhưng chuyện nọ xọ chuyện kia mãi mới dứt ra được!".

Thời bao cấp, vợ chồng ông dành dụm mãi mới mua được chiếc xe đạp Phượng Hoàng. Trong một lần đi tác nghiệp, ông dựng xe ở tầng 1 để lên tầng 4 phỏng vấn. Khi xuống thì chiếc xe đã không cánh mà bay. Về nhà, vợ xót của cằn nhằn thì ông bảo: "Anh cứ nghĩ ai lại kém nhân cách đi ăn cắp chiếc xe đạp!".

Sau đó hai năm, vợ ông lại chắt chiu mua được chiếc xe đạp Thống Nhất. Trong lần Nguyễn Hoàng Sơn đạp xe đi thăm thú bạn bè, không hiểu sơ sểnh thế nào mà chiếc xe lại... mất nốt. Về nhà, không biết ăn nói sao với vợ, ông đành nói dối là đến nhà người bạn thân, uống rượu rồi ngủ lại, để rồi trộm vào nhà lấy xe lúc nào không biết. Ông còn dẫn người bạn ấy về tận nhà xin chịu bù một nửa số tiền xe, coi như trách nhiệm bạn bè giúp đỡ nhau. Sau này vợ ông mới biết, chính Nguyễn Hoàng Sơn đã cặm cụi viết lách... ngoài giờ để kiếm tiền đưa bạn đền cho... vợ mình!

Có lẽ cái may mắn của Nguyễn Hoàng Sơn là ông có một người vợ đảm đang chu tất cho gia đình. Cho đến ngày hôm nay, bàn tay ông chỉ là để dành cho cây bút và trang giấy, ông hoàn toàn khờ khạo trong tất cả những việc thuộc về đời sống, nhà cửa, con cái. Trong gia đình, từ việc nhỏ đến việc lớn, vợ ông là người đứng ra lo toan. Nguyễn Hoàng Sơn tuy là người thông minh, láu lỉnh, nhưng ở một khía cạnh nào đó, ông lại mang khí tiết của một nhà Nho, không màng đến những bon chen của đời sống. Những thứ ông có được ngày hôm nay dường như là một sự an bài của số phận. Chỉ duy nhất một thứ khiến ông đam mê theo đuổi và tự khẳng định, đó là văn chương.

Dù là thế, hơn 30 năm làm văn, làm báo, Nguyễn Hoàng Sơn được cho là người lặng lẽ. Vài ba năm trước khi ông nghỉ hưu, đôi khi tôi có cảm tưởng, ngoài căn phòng của báo Tiền phong Cuối tuần, khó có thể gặp Nguyễn Hoàng Sơn đâu đó ở các quán nhậu, càng khó nhìn thấy ông trong trạng thái say xỉn…

Ông khởi nghiệp bằng thơ trữ tình, nhưng bạn đọc lại biết đến ông với tư cách của một nhà thơ thiếu nhi. Ông nhận được các giải thưởng lớn nhỏ của Hội Nhà văn Việt Nam nhưng ít thấy ông đăng đàn, diễn thuyết.

Tôi hỏi Nguyễn Hoàng Sơn rằng, tại sao trong suốt những năm qua, ông không in một tập thơ tình, hay nói đúng hơn là "thơ cho người lớn", trong khi vốn liếng ấy hiện giờ ông có hơn 200 bài? Ông cười nhẹ: "Tại thời điểm cần in thì tôi không thích, giờ thì nó đã qua mất rồi. Có lẽ sắp tới tôi sẽ chọn lại và in một tập. Đã hơn 2 năm qua tôi không làm được thêm bài thơ nào nữa, tôi nhận ra rằng làm thơ thích nhất nhưng cũng khó nhất, khi nguồn cảm hứng thơ đã mất thì khó mà cố lấy lại được".

Giờ đây, sau khi nghỉ hưu, mặc dù rảnh rỗi hơn trước, song Nguyễn Hoàng Sơn cũng không viết được gì. Ông mệt mỏi chống chọi với căn bệnh huyết áp và tiểu đường tuyp 2. Đôi lúc tôi thấy ông trầm ngâm lơ đãng với cuộc sống xung quanh... Tôi hỏi: "Ông có hẫng không khi về nghỉ hưu?". Ông cười gượng, lảng tránh bằng một câu trả lời đầy ẩn ý: "Đến lúc bằng tuổi chú, cháu sẽ hiểu!".

Qua tìm hiểu, tôi biết rằng, Nguyễn Hoàng Sơn hoàn toàn không "hẫng" khi từ giã chiếc ghế ông đã từng ngồi hàng chục năm qua, thậm chí, ông cảm thấy thanh thản. Căn bệnh trầm cảm của ông có lẽ là bởi những suy nghĩ về người anh ruột mất đột ngột sau ngày về hưu được nửa năm. Trong khi bố mẹ của ông đã ngót tuổi "bách niên giai lão" vẫn còn khỏe mạnh.

Điều khiến Nguyễn Hoàng Sơn áy náy là trước ngày mất dăm hôm, người anh cả ấy có đến chơi nhà ông và trong câu chuyện, anh em có sự bất hòa. Người anh nói: "Tao sẽ không bao giờ đến cái nhà này nữa!". Câu nói định mệnh đó cũng là lời chào vĩnh biệt của người anh. Câu nói ám ảnh Nguyễn Hoàng Sơn đến nỗi, sau sự ra đi của người anh, ông đã bị một cú sốc tinh thần rất lớn. Ông đã phải bán đi chiếc ôtô vì không đủ sức khỏe để cầm lái. Ông cũng ít nói hơn, những câu chuyện thưa dần ngay cả với vợ con, với các cháu. Ông lặng lẽ đóng phòng văn để đọc lại những tác phẩm kinh điển một thời của văn học Việt Nam như "Bỉ vỏ", "Những ngày thơ ấu"…

Tôi ngồi với nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn cả một buổi chiều yên tĩnh trong khu nhà tập thể của báo Tiền Phong. Có đôi lúc tôi cảm thấy thời gian trôi đi thật chậm...  Tôi nghĩ, nếu không có người chuyện trò, có lẽ gương mặt ông sẽ chùng xuống trong những suy nghĩ vô vi của cõi lòng đầy mất mát. Ông là người hay giấu mình trong ốc đảo của sự im lặng và một vỏ bọc khe khắt với những ưu tư nặng trĩu không thể sẻ chia, ngay cả hồi ông còn trai trẻ. Nhưng những vần thơ của ông thì không thể giấu nổi một tâm hồn đầy đa cảm, dù đó là thơ tặng vợ, tặng con, hay tặng một người tình vu vơ không hiện hữu… Như một đoạn thơ ông viết:

Mong manh quá những gì anh níu giữ
Cả miền Trung anh kí gửi nơi em
Nếu bất hạnh có điều gì đổ vỡ/
Anh làm sao bù vào những thiếu vắng trong tim?

Trần Hoàng Thiên Kim
.
.