NSND Xuân Huyền: Lao động, và lao động mãi - cho đời

Thứ Năm, 05/07/2018, 12:25
Tuổi Nhâm Ngọ 1942, với tính cách một người dân xứ Nghệ thẳng thắn, trung thực, ăn sóng nói gió, không bao giờ chịu hạ mình luồn cúi trong cuộc sống cũng như trong công việc, đến nay, sắp bước vào tuổi “bát thập”, Xuân Huyền đã có thể bình thản để nhìn lại một chặng đường lao động nghệ thuật của mình.


Cách đây tròn 6 năm, đúng vào dịp NSND, đạo diễn Xuân Huyền tròn 70 tuổi, Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam đã tổ chức tại Hà Nội một số đêm diễn các tác phẩm do đạo diễn Xuân Huyền dàn dựng - nhằm tôn vinh nửa thế kỷ hoạt động sân khấu của ông. Với sự tham gia của Nhà hát Kịch Việt Nam, Nhà hát Tuổi trẻ, Nhà hát Kịch Quân đội và Nhà hát Kịch Hà Nội... khán giả đã được thưởng thức những vở diễn hấp dẫn, cuốn hút, đầy tìm tòi, độc đáo về xử lý không gian sân khấu và nghệ thuật biểu diễn của nhiều thế hệ nghệ sĩ nổi tiếng... Cũng sau đợt biểu diễn đó, từ năm 2013, NSND Xuân Huyền chính thức “rửa tay, gác kiếm” với ánh đèn sân khấu vì lý do sức khỏe...

Chào đời và lớn lên tại Thanh Chương - mảnh đất vào loại nghèo nhất của vùng quê địa linh nhân kiệt Nghệ An - tròn 17 tuổi, Xuân Huyền đã khăn gói ra kinh thành Thăng Long - Hà Nội, theo học khoá đầu tiên, Trường Nghệ thuật Sân khấu Việt Nam (1959- 1963).

Tốt nghiệp, rồi sau một thời gian gắn bó với nghệ thuật Tuồng truyền thống, năm 1971, Xuân Huyền được cử đi học đạo diễn tại Liên Xô và trở về nước năm 1977. Từ đó, gắn bó với hai cánh màn sân khấu trong cả nước; đạo diễn Xuân Huyền đã dàn dựng hàng trăm vở diễn cho các đoàn nghệ thuật, với đủ các loại hình sân khấu: Tuồng, Chèo, Cải lương, Kịch nói, Dân ca.

Ngoài ra, là một giảng viên của Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội, cũng trong khoảng thời gian đó, Xuân Huyền đã đào tạo nên nhiều thế hệ học trò xuất sắc, mà trong số họ, không ít người đã được Nhà nước phong tặng Danh hiệu NSND, NSƯT - hiện đang là các gương mặt sáng giá trong nghệ thuật biểu diễn, cũng như trong công tác quản lý các đơn vị sân khấu cả nước…

Khi tôi lần giở xem nhiều cuốn sổ tay, trong đó ghi chép những suy nghĩ, tìm tòi, trăn trở, băn khoăn, ý tưởng trong công việc, học hành, dàn dựng và giảng dạy của ông trong suốt nửa thế kỷ qua; tôi càng thấy một Xuân Huyền lao động hết mình trên con đường sáng tạo nghệ thuật, gắn bó tâm huyết với nền sân khấu đương đại Việt Nam.

Nhớ lại năm 1980, Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp được tổ chức. Đây là lần đầu tiên sau ngày thống nhất đất nước (30/4/1975), một Hội diễn lớn với quy mô toàn quốc đã được triển khai, đúng vào thời điểm sân khấu đang trong thời kỳ hoàng kim, với sự góp mặt của nhiều thế hệ nghệ sĩ tài năng nhất của cả hai miền Nam - Bắc.

Vừa tốt nghiệp về nước, đang ở độ tuổi sung sức, mang trong mình nhiều khát khao sáng tạo, Xuân Huyền đã trình giới sân khấu cả nước bằng vở diễn đầu tay “Gió và bụi” của Đoàn Cải lương Sông Hàn, Đà Nẵng, một trong những đơn vị nghệ thuật rất nổi tiếng từ trước ngày giải phóng; tại Hội diễn đợt II ở Hải Phòng (tháng 5/1980).

Đó là một vở diễn hoành tráng với sân khấu ước lệ, tượng trưng, rực rỡ, cuốn hút bằng một thủ pháp đạo diễn sáng tạo, mới mẻ, độc đáo và nồng nhiệt, đã để lại một ấn tượng mạnh mẽ cho khán giả cả trong và ngoài giới sân khấu.

“Gió và bụi” đã đoạt Huy chương Bạc của Hội diễn, cũng là tấm giấy thông hành khẳng định tài năng của đạo diễn Xuân Huyền, để ông bắt đầu một sự nghiệp sáng tạo sân khấu của mình. Sau vở diễn này, năm 1981, Xuân Huyền dàn dựng tiếp hai vở cải lương “Trương Chi" và "Lê Chân” (cùng cho Đoàn Cải lương Hải Phòng).

Từ đó, với các đoàn nghệ thuật sân khấu của đất Cảng, ông đã dàn dựng thành công hàng chục vở diễn; trong đó có những tác phẩm nổi tiếng, tạo nên những thành công lớn về nghệ thuật dàn dựng, cũng như nghệ thuật biểu diễn của các nghệ sĩ. Càng lao động nghệ thuật, Xuân Huyền càng khẳng định bản lĩnh nghề nghiệp và một cá tính độc đáo của ông - đó là sự kết hợp hài hoà, nhuần nhuyễn giữa các thủ pháp nghệ thuật tuồng truyền thống của ông cha với nghệ thuật kịch tâm lý hiện đại mà ông tiếp thu được của thế giới sau khi du học trở về.

Thế rồi, chỉ sau đó một năm, năm 1982, tỉnh Nghệ Tĩnh (lúc đó Nghệ An và Hà Tĩnh sáp nhập vào làm một) đã mời Xuân Huyền vào dàn dựng cả ba vở cho ba đoàn: Đoàn Kịch nói (“Ôtenlô” của Sếchxpia), Đoàn Chèo (“Vòng phấn Kápka” của Bectôn Bơrét), Đoàn Cải lương (“Tiếng hát tình yêu” - một vở diễn hiện đại của Vũ Dũng Minh - Ngọc Thụ); thì tên tuổi của đạo diễn Xuân Huyền đã nổi tiếng trong giới sân khấu cả nước…

Từ “Ôtenlô”, vẫn bằng thủ pháp ước lệ, tượng trưng, với một không gian sân khấu giản dị, gợi mở, thoáng đãng nhưng lại lộng lẫy, bề thế - những vòm cổng, những sợi xích hai màu đen, trắng đối lập giữa phi nghĩa và chính nghĩa; một vòng bục cong lúc dựng lên thành con thuyền hết sức gợi cảm và cũng rất ước lệ - Xuân Huyền đã làm say mê, cuốn hút khán giả Nghệ Tĩnh khi nô nức đi xem các nghệ sĩ tuy còn rất non trẻ của mình, lại “dám” sáng tạo những vai diễn trong một kiệt tác sân khấu đã tồn tại hàng trăm nay.

Nhưng một điều thú vị hơn, đáng nói hơn là “Ôtenlô” của thiên tài Sếchxpia, lần đầu tiên được dàn dựng thành công tại Việt Nam, lại do một đoàn kịch địa phương trình diễn… (vở diễn này, đúng 20 năm sau đã được Xuân Huyền dàn dựng lại cho Nhà hát Tuồng Việt Nam, tham dự Liên hoan Sân khấu thử nghiệm Quốc tế năm 2002 tại Hà Nội).

Có thể nói, với ba vở diễn của ba loại hình sân khấu cùng làm cho cả ba đoàn nghệ thuật của Nghệ Tĩnh, đạo diễn Xuân Huyền đã bắt đầu hình thành cho mình một phong cách dàn dựng mới mẻ, táo bạo, kết hợp nhuần nhuyễn tính cách điệu, ước lệ, tượng trưng của sân khấu truyền thống dân tộc với một sân khấu mang hơi thở, tiết tấu hiện đại của cuộc sống hôm nay.

Với ba vở diễn này, Xuân Huyền tâm sự: “Sân khấu của tôi không bao giờ chỉ là trò chơi, trò giải trí, hoặc chỉ là mua vui đơn thuần; mà qua mấy chục mét vuông sàn diễn, tôi muốn mang đến cho cuộc đời những niềm vui, nỗi buồn, cũng như những khát vọng chân chính của con người”.

Đến đây, cũng xin mở một cái ngoặc nhỏ là đối với tôi - thời gian này chính là một kỷ niệm rất đẹp trong cuộc đời làm sân khấu - bởi lần đầu tiên tôi cộng tác với đạo diễn Xuân Huyền với tư cách là họa sĩ, và cùng một lúc thiết kế mỹ thuật cả ba vở nói trên. Từ đó, chúng tôi đã cùng cộng tác sáng tạo thành công trên năm chục vở diễn và cùng được Nhà nước phong tặng danh hiệu NSƯT rồi NSND…

Trong bài viết ngắn này, chúng tôi không thể kể ra và phân tích một cách đầy đủ về các vở diễn của đạo diễn Xuân Huyền, bởi báo chí đã nói rất nhiều về những thành công này của ông, nhưng với tư cách là một họa sĩ đã cộng tác làm việc với ông, tôi có thêm một nhận xét này: Trong công việc sáng tạo, Xuân Huyền không bao giờ áp đặt ý đồ cho họa sĩ; ngược lại, ông tận dụng và sử dụng triệt để trang trí một cách sáng tạo và hiệu quả nhất.

Ngoài sự gắn bó với hội họa, âm nhạc (là hai loại hình nghệ thuật không thể tách rời sân khấu), đạo diễn Xuân Huyền còn rất đam mê thơ ca - và chính từ ba loại hình nghệ thuật, như ba cái chân kiềng này - Xuân Huyền đã tạo ra cho sân khấu của mình những vở diễn vừa bạo liệt, vừa dữ dội, vừa bi và hài, nhưng cũng rất nên thơ, lãng mạn, trữ tình, bay bổng; mà trong đó, nghệ thuật biểu diễn sống động của diễn viên luôn được ông coi trọng, đặt lên hàng đầu trong tư duy sáng tạo của mình.

Chính Xuân Huyền đã tạo nên niềm khát vọng cho người diễn viên, và thổi bùng lên ngọn lửa nhiệt tình, đam mê đó của họ. Bởi vì, chính ngọn lửa đam mê ấy là yếu tố đầu tiên tạo nên sự thành công bất tử của nghệ thuật sân khấu…

Tuổi Nhâm Ngọ 1942, với tính cách một người dân xứ Nghệ thẳng thắn, trung thực, ăn sóng nói gió, không bao giờ chịu hạ mình luồn cúi trong cuộc sống cũng như trong công việc, đến nay, sắp bước vào tuổi “bát thập”, Xuân Huyền đã có thể bình thản để nhìn lại một chặng đường lao động nghệ thuật của mình.

Có vui và buồn; có cay và đắng; có cả những tìm tòi, thử nghiệm, thất bại và thành công; những nụ cười và cả những giọt nước mắt đã gắn bó với hai cánh màn sân khấu dân tộc ngót 50 năm qua; nhưng như tâm niệm của ông “Sinh nghề, tử nghiệp - trong bất kỳ hoàn cảnh nào, người nghệ sĩ cũng phải thuỷ chung với nghiệp tổ sân khấu, để tiếp tục lao động, lao động và lao động mãi cho đời…”.
Lê Huy Quang
.
.