Lê Chí: Làm nhà thơ đừng có ba hoa, lắt léo

Thứ Tư, 17/05/2017, 09:45
Lê Chí làm cán bộ văn nghệ do anh em “tiến cử”, rời khỏi “vai trò” cán bộ để về hưu, tôi thấy anh như người được tháo “ách”. Anh cần mẫn làm thơ, suy đi tính lại sau những cơn ngẫu hứng, và sau mỗi bài thơ là cả một chuỗi lặng im. Lặng im chiêm nghiệm. Lặng im vật vã. Lặng im cười cợt, tự giễu mình. Bảo anh làm tuyển tập, anh phản đối. Tôi hỏi vì sao, anh bảo: "Mình tự biết mình, thương người đọc lắm ông ơi!"...


Trước kia, hồi chưa quen nhà thơ Lê Chí, tôi luôn luôn nghĩ tính khí người Nam Bộ phóng khoáng rộng dài. Lúc quen Lê Chí, rồi chơi thân với anh ngay tại xứ Cà Mau và Cần Thơ, về ở hẳn trong nhà anh cả tháng trời, khi vô miệt vườn, theo anh đi nhậu, khi ra chợ, cũng đánh đu với bạn bè thơ phú văn chương nhậu nhẹt, có hôm trắng đêm, có bữa thấu ngày, thấy Lê Chí uống rượu không ồn ào như tôi, hay vội vã tất bật như chú em Trọng Tín (Tín kêu Lê Chí là chú) mà anh lúc nào cũng tà tà điềm tĩnh, chơi với ai cũng cần mẫn chỉn chu, ngồi với ai cũng ngồi hết chuyện, tàn cuộc.

Tôi đi với anh ngày nào cũng “lên bờ xuống ruộng” mà anh thì chỉ cười cười, nhiều lúc chu đáo như bà chị, chả thấy rộng dài phóng túng “Nam Bộ” chút nào. Lo cơm áo gạo tiền cho bạn đi nhậu cũng tỉnh bơ. Nhà cửa lúc nào cũng gọn gàng. Có lần kiếm được con lươn to ngang cườm tay, anh bỏ vô bị, tha lên Sài Gòn gọi tôi và Lê Văn Thảo ra “xử”. Anh có cái thú chỉ ngồi nhìn bạn bè đánh chén một bữa rồi lặng lẽ quay về. Ai nói gì tùy ý. Lê Chí nghe và không mấy khi bình luận.

Tôi đi Nga, ở chung với Lê Chí ba tháng. Ngày ấy người người tất bật lo mua bán, riêng Lê Chí cứ bình chân như vại. Hai anh em tôi cũng đi xem, cũng xáp vô xếp hàng mua bàn là, may-so nhưng không phải mồ hôi mồ kê như một số bạn. Thế mà lúc về nước cũng đủ “định lượng” mỗi anh mấy thùng hàng như ai.

Tôi rất ấn tượng khi ra sân bay rồi, Lê Chí đưa cho tôi mấy phong sôcôla, bảo “đem về cho con bé”. Hồi ấy tôi chưa biết gì việc mua quà cáp, lại càng  dốt nát cái khoản sôcôla với lại nước hoa, thế mà ông anh rủ rỉ rù rì lại hoá ra “sành điệu”, lo trước cho tôi cả hai thứ. Thật ra, cái khác người của Lê Chí không phải anh ít nói, càng không phải anh hiền lành, mà có lẽ cái tính cực đoan, đã yêu ai thì yêu chí chết, đố có ai chen ngang được.

Lê Chí làm cán bộ văn nghệ do anh em “tiến cử”, rời khỏi “vai trò” cán bộ để về hưu, tôi thấy anh như người được tháo “ách”. Anh cần mẫn làm thơ, suy đi tính lại sau những cơn ngẫu hứng, và sau mỗi bài thơ là cả một chuỗi lặng im. Lặng im chiêm nghiệm. Lặng im vật vã. Lặng im cười cợt, tự giễu mình. Bảo anh làm tuyển tập, anh phản đối. Tôi hỏi vì sao, anh bảo: "Mình tự biết mình, thương người đọc lắm ông ơi!".

Hồi nhà văn Nguyễn Linh còn sống, ở Cần Thơ, tôi và Nguyễn Trọng Tín ở trong nhà Lê Chí, nhưng suốt ngày đi nhậu với Nguyễn Linh. Tối tối ba thằng say ngất ngưởng về, anh chị lo cơm nước đậy lồng bàn, tụi tôi toan ăn cơm nguội, không anh thì chị lụi cụi thức dậy hâm nóng thức ăn. Nguyễn Linh vốn là anh cán bộ con nhà “quan to” nên dáng vẻ tự tin, ăn nhậu thoải mái, chơi với bạn hết mình. Mỗi lần dẫn tôi vô vườn nhậu chơi với mấy bà chị ở giá, tính tình anh phóng khoáng nhẹ nhàng chu đáo và không chút giữ ý.

Anh chị em nhậu với nhau vui “quắc cần câu”. Dường như nước sông là rượu mà cá tôm dưới đìa là cá tôm ao nhà. Chúng tôi chỉ việc ra “xổ” một cái, về giũ qua loa, luộc “tốc hành” đổ lên bàn là nhậu cả buổi. Lê Chí chiều Nguyễn Linh hết cỡ. Cái tật của ba anh nhậu xỉn đòi hỏi đủ chuyện, khi thì kêu con lịch. Lúc ưa ăn thịt rắn, khi muốn nhậu ba ba, lúc đòi ba cái trứng vịt ung thum thủm nhậu vô bắt nghiền.

Lê Chí  coi rù rờ vậy nhưng  Nguyễn Linh đòi cái là  “ba mươi giây” đáp ứng liền. Không cằn nhằn nói qua nói lại. Bạn đòi hỏi ngày này qua ngày khác giằng dai không mệt mỏi.  Có bận ngồi uống nhà chị Ba, tôi và Lê  Chí say quá không về được. Chị Ba mắc mùng cho tụi tôi kềnh luôn dưới sàn nhà. Chị Ba kêu vợ Lê Chí đến rước. “Không rước được thì mấy đứa bay đành ở lại mà làm mồi cho muỗi Cà Mau vậy hà”.

Từ hồi về làm ở Nhà xuất bản Hội Nhà văn, tôi nhiều lần gọi Lê Chí, bảo anh lo bản thảo cho tôi làm bộ Tuyển thơ Lê Chí. Anh ậm à ậm ừ. Mãi tới lần mới rồi, tôi nhắc lại ý muốn, anh mới bảo: “Thôi ông làm tuyển cho anh em khác. Mình để thư thư cái đã”. Quả tình, tôi hơi bị lúng túng rồi suy đi ngẫm lại, mới nhận ra, phải đến cái tuổi nào đó với những cuộc hành trình vào đời sống đầy éo le, trắc trở, mới có được cách từ chối “không phiền ai” giản đơn nhẹ nhàng như thế.

Anh là bạn sàn sàn cùng lứa với Nguyễn Linh, Nguyễn Thanh. Mỗi anh đi “R” mỗi khác. Mỗi anh bước chân vào ngôi làng văn chương mỗi cách. Nhưng cả ba anh có chung một cách sống kỹ lưỡng, chỉn chu, sâu nặng. Không náo nhiệt ồn ào, kể cả khi rượu vào lời ra. Cái sự “lời ra” của ba anh cũng cùng có chung một nhịp: chậm, rề rề, nhưng quyết liệt, không khoan nhượng.

Nguyễn Thanh, Nguyễn Linh viết văn xuôi, còn Lê Chí làm thơ. Thơ anh cũng chậm rãi, rề rề, thỉnh thoảng có những câu thơ bột phát, giản dị mà tinh tế giống như bè bạn trang lứa rì rầm tâm đắc trò chuyện “nghiêm trọng” cùng nhau lúc vui buồn. “Nhớ là trăm sông đổ dồn biển cả/ Biển và sông triệu con sóng xôn xao vỗ đến vô cùng/ Nhớ đến tự khi nào, ngày tháng ấy tôi thì vô phương nhớ…”.

Tôi nằm võng trên sân thượng nhà mình đung đưa, ngẫm nghĩ hoài về những vần thơ “Nhớ” vừa đọc lại của anh mà lòng rạo rực buồn, rạo rực nhớ thương những tháng ngày đã qua trong trăm nỗi. Nhớ khuôn mặt khi tươi roi rói, lúc chùng xuống rầu rầu của Nguyễn Thanh. Nhớ cái dáng hào hoa phong trần của Nguyễn Linh.

Ồ, thế mà đã mấy chục năm qua rồi nhỉ. Bây giờ Nguyễn Linh đã biến đi đâu mất ở nơi chốn xa xôi tít mù! Sẽ đến  ngày lần lượt cánh tôi cùng tới đó. Tôi lục trong mớ thư từ hồi đó Nguyễn Linh hay viết cho tôi, nét chữ anh thật đẹp, thật dịu dàng, anh nhắc với tôi rằng, tụi  tao nhớ “mầy” dữ lắm. Mỗi lần nhậu đều nhắc hoài à. Lê  Chí  thì viết thư thơ cho tôi: “Hạnh phúc gian nan nhưng trọn vẹn tấm lòng, trọn vẹn một đời đáng sống…”. Ấy vậy mà rồi hôm nay có lúc tôi chợt quên, chợt sao nhãng, để rồi có lúc vô tình “lẫn lộn những điều cần nhớ cần quên…”

Trong sáng tác thi ca hay trong đời sống thực, cái mạnh nhất (và có khi cả là cái yếu nhất) của Lê Chí, có lẽ là đức tính chân thật quá. Thật quá đến căng thẳng. Anh có cái nhìn thẳng thắn thấu vào tâm tư (hay nói đúng hơn, anh nhìn thẳng vào trái tim mình, trái tim người). Anh nhắc nhở mình, nhắc nhở mọi người, gợi cho tôi những cảm nhận mà tôi chưa cảm nhận được: “…nỗi nhớ đã tạc thành bia để ta đọc buổi mai này/ Không ai được phép đọc nhanh như kẻ qua đường…”.

Anh nhẹ nhàng vỗ vai bạn khi bạn có ý định thanh minh: “Xin đừng đổ vì bận thương bận nhớ mà…”. Lê Chí là người từng trải, vừa hiền lành đôn hậu, vừa nghiêm túc đến quyết liệt, không du di. Anh giản dị và chất phác đến khó chịu. Anh xuề xoà đến dễ gần, khiến ta không bị mặc cảm, khó chịu trước những lời nhắc nhở khá là ráo riết của anh. Ta đọc anh, tiếp thu được ở anh cái tình nhiều hơn cái lý, cái sâu lắng hiu hiu buồn của cuộc sống đời thường lúc nào cũng thao thiết chộn rộn trong lòng.

Có thể nhận định anh là người dễ tính nhưng không buông thả, “chịu chơi” nhưng tự biết mình, biết bạn, không ồn ào nhưng cởi mở. Đọc anh khiến tôi cứ phải tự vấn, tự chiêm nghiệm lại mình và lòng tôi không nguôi ngoai khắc khoải, đúng hơn là không yên.

Anh khẳng định: đã là nhà văn nhà thơ thì phải trong sáng thiệt thà, không ba hoa lắt léo. Với anh, người nghệ sĩ chân chính trước hết phải trung thực với mình, trung thực với lý tưởng của mình, không phải chỉ bằng những diễn văn khẩu hiệu, những lời hứa suông, mà nghệ sĩ là phải “lấy trái tim mình làm nhiệt kế kiểm tra…”, không phải lúc nào cũng kiểm điểm, đổ lỗi cho nhau mà cần “Tự lòng ta ta phải trả lời…”, “Ở đây không ai được cải chính bằng lời/ Bởi lời lẽ quanh co đang từng ngày lạm phát…”.

Thực ra, nếu trong cuộc sống chưa từng có sự nói dối thì hà tất anh phải nói tới nó! Đọc tới đây tôi chợt mỉm cười, trộm nghĩ cùng tác giả. Và tôi chợt hình dung thấy có người nhăn trán, hỏi: Lê Chí làm gì mà căng thẳng vậy? Và tôi xin giơ tay trả lời giùm: “Anh là một công dân. Anh là một thi sĩ không hài lòng với chính mình”. Tuy nhiên, anh không chỉ có vậy. Anh còn  là nhà thơ yêu thích thiên nhiên, dễ rung cảm trước thiên nhiên. Và cái rung cảm ấy dội sâu vào tâm tưởng để rồi bật ra thành những liên tưởng tinh tế.

 Tôi phải tự hạn chế mình để ngưng bút khi viết về Lê Chí. Nhưng tôi muốn nhắc lại rằng, thơ anh là bản tình ca khắc nghiệt của thế hệ anh, những người bước từ trong “R” ra, còn mang mãi theo mình mùi thơm của rừng tràm rừng đước, mang theo cả mùi khét của khói lửa của chết chóc đau thương ròng rã mấy chục năm chiến trận. Mang theo cả tiếng hát, tiếng khóc và tiếng nấc đau thương của quê hương xứ sở để ra sống cùng bà con nơi bến chợ. 

Trung Trung Đỉnh
.
.