Hậu tổ của nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ

Thứ Tư, 18/11/2015, 08:00
Theo dòng chảy hơn 100 năm, không phải giới hàn lâm mà chính các nghệ nhân dân gian mới là những người có công lao đóng góp, định ra âm luật, tính căn cơ và bài bản của âm nhạc tài tử được lưu truyền cho đến ngày hôm nay. Trong đó, phải kể đến công lao của cố nhạc sư - Nghệ nhân dân gian Nguyễn Quang Đại. Giới chơi nhạc tài tử thường gọi ông với cái tên kính mến là cụ Ba Đợi và tôn vinh ông là "hậu tổ" của đờn ca tài tử Nam Bộ.

Nhạc tài tử đã có mặt ở đất Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, do các thầy đờn của vùng đất "thần Kinh" truyền bá, các sĩ tử, trí thức miền Nam truyền dạy. Từ khi Nguyễn Quang Đại vào Nam truyền dạy âm nhạc, nhạc cổ mới trở thành một phong trào rộng khắp ở các tỉnh miền Đông và lan sang các tỉnh miền Tây Nam Bộ, gọi là phong trào đờn ca tài tử.

Cố nhạc sư - Nghệ nhân dân gian Nguyễn Quang Đại (Ba Đợi) thuộc dòng họ Nguyễn Nhữ ở Hải Quế, Hải Lăng, Quảng Trị. Ông sinh năm Mậu Ngọ (1855), mất năm nào không rõ. Tài liệu của ông giáo Thinh (Nghệ nhân Nguyễn Văn Thinh), học trò đời thứ  hai của ông, nguyên Trưởng khoa Nhạc dân tộc của Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn chỉ ghi lại là ông mất vào ngày 19 tháng Giêng mà không ghi năm chính xác. Ông hoạt động âm nhạc chuyên nghiệp trong dàn nhạc cung đình Huế.

Linh vị Nghệ nhân dân gian Nguyễn Quang Đại tại đình Vạn Phước - xã Mỹ Lệ - huyện Cần Đước - tỉnh Long An.

Năm 1885 vua Hàm Nghi xuất bôn, ông theo phong trào Cần Vương vô miền Nam truyền dạy âm nhạc ở nhiều địa phương. Đặc biệt, khi sống ở Sài Gòn, xóm Hàng Dừa (nay là đường Phó Đức Chính - quận 1- TP Hồ Chí Minh), ông đã đào tạo được các nhạc sĩ lừng danh như: Sáu Thới, Tám Hạnh. Sau đó, ông về vùng Cần Đước, Cần Giuộc (Long An) tiếp tục dạy nhạc, đào tạo được nhiều học trò. Ngoài ra, ông còn dạy nhiều học trò ở các địa phương khác như: Gò Công, Mỹ Tho (Tiền Giang), Bến Tre, Bà Rịa, Bình Dương, Biên Hòa (Đồng Nai). Sau đó, ông trở về lại Đa Kao, Sài Gòn tiếp tục dạy nhạc. Vì nghèo khó, ông về ở nhà người con thứ hai là cậu Hai Tuân ở Rạch Cát - Bến Bình Đông - quận 8- thành phố Hồ Chí Minh, rồi mất ở đó. Linh vị ông nay được thờ tại đình Vạn Phước, xã Mỹ Lệ, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Gần hai thập niên qua, năm nào đình Vạn Phước cũng kết hợp tổ chức lễ hội cầu an với lễ giỗ cố nhạc sư Nguyễn Quang Đại.

Ở Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có hai nhóm nhạc tài tử phổ biến âm nhạc theo hai quan điểm, xu hướng khác nhau, cạnh tranh quyết liệt. Đó là nhóm nhạc miền Đông do ông Nguyễn Quang Đại làm trưởng nhóm và nhóm nhạc miền Tây do Kinh lược đại thần Trần Quan Quờn đứng đầu.

Nhóm nhạc miền Tây được sự cộng tác của ông Nguyễn Liêng Phong (nhạc sư kiêm văn sĩ), Phạm Đăng Đàng (sĩ phu yêu nước gốc miền Trung) cùng các nhạc sư danh tiếng như cụ Thập, cụ Thủ. Nhóm nhạc miền Tây chủ trương duy trì nguyên tắc của các bài bản nhạc cung đình Huế để áp dụng cho việc cấu tạo âm thanh trong nhạc tài tử Nam Bộ, vẫn giữ đúng ba loại nhịp: "nhịp Nội, nhịp Ngoại và nhịp Hoán pháp - Chánh thất", sử dụng tất cả các bài bản có sẵn của âm nhạc miền Trung, đồng thời sáng tác thêm một số bài bản mới nhưng vẫn giữ nguyên phương thức, âm tiết của âm nhạc Huế. 

Quan điểm âm nhạc này đã không được hưởng ứng mạnh trong giới chơi nhạc tài tử ở Nam Bộ lúc bấy giờ. Thậm chí một số bài bản mới như: "Hiệp Điệp Xuyên Hoa, Thanh Đình Điểm Thủy, Kinh Oanh Trịch Liễu"... đã chết từ khi mới ra đời. Trong khi đó, nhóm nhạc miền Đông do ông Nguyễn Quang Đại làm trưởng nhóm, được sự cộng tác của một số học trò tài ba của ông như: Sáu Thới, Bảy Nhỏ, Tám Hạnh, Cao Huỳnh Cư, Cao Huỳnh Diêu, Sáu Thoàng, Chín Chiêu, Năm Tịnh, Sáu Giỏi, Năm Khiết, Ba Đồng, Năm Cần, Giáo Thinh (Nguyễn Văn Thinh), Cao Hoài Sang... đã cải biên các bài bản của âm nhạc Huế bằng cách giản dị hóa lối ấn nhịp để tạo một nhạc điệu hòa hợp với ngôn ngữ của cư dân vùng đất Nam Bộ.

Bài bản cải biên chỉ có hai nhịp: "nhịp Nội" và "nhịp Ngoại". Trên nền tảng nắm chắc âm nhạc ngũ cung, ông Nguyễn Quang Đại chủ trương tôn trọng "lòng bản" khi trình tấu, nhưng vẫn được tự do sáng tạo chữ đờn và nối nhịp lơi ra tùy theo người ca và người đờn chung với mình. Ông đã sáng tác rất nhiều bài bản, cụ thể có bộ Ngũ Châu miền Đông, tám bản Ngự (còn gọi là Bát Ngự) để cung nghinh vua Thành Thái khi đức vua vào Nam khoảng năm 1898 -1899.

Bộ Ngũ Châu miền Đông gồm có các bài bản như: "Kim Tiền Bản",  "Ngự Giá", "Hồ Lan", "Vạn Liên" và "Song Phi Hồ Điệp". Trong quá trình phát triển, bản "Song Phi Hồ Điệp" được thầy đờn Ba Đồng (Cần Giuộc - Long An) chuyển từ hơi Bắc qua hơi Ai - Oán ở lớp chót và chuyển cung bậc, tạo nét truyền cảm sâu sắc.

Tám bản Ngự gồm có: "Đường Thái Tôn", "Vọng Phu", "Chiêu Quân", "Ái Tử Kê", "Bát Man Tấn Cống" (5 bản này có hơi Bắc); "Tương Tư", "Duyên Kỳ Ngộ" (hai bản này có hơi Ai - Ngự), "Quả Phụ Hàm Oan" (hơi Ai - Oán - Ngự). Các bản Ngự mang ý nghĩa là qua tên Ngự, tác giả muốn đề cập đến Vua. Miền Nam là xứ thuộc địa của Pháp lúc bấy giờ, chưa bao giờ thấy Vua, nên thể hiện tình cảm, lòng trung thành, tinh thần yêu nước trong hoàn cảnh bị xâm lược. 

Nhiều tài liệu nghiên cứu cho rằng, cố nhạc sư Nguyễn Quang Đại cùng các học trò còn "hệ thống hóa" hơi, điệu bài bản nhạc tài tử thành 20 bài bản Tổ theo bốn điệu thức: "Bắc", "Nam", "Hạ", "Oán". Trong đó, "điệu thức Bắc" bao gồm các bản: "Lưu Thủy Trường", "Phú Lục Chấn", "Cổ Bản", "Bình Bán Chấn", "Xuân Tình Chấn" và "Tây Thi Trường". Điệu thức Nam gồm có: "Nam Xuân, Nam Ai và Nam Đảo" (còn gọi là Đảo Ngũ Cung). Ba bản Nam do Nguyễn Quang Đại lấy hơi, điệu của các bản nhạc miền Trung viết mới lại theo phong cách nhạc tài tử Nam Bộ. Ngày xưa, đờn các bản Nam phải đờn liên hoàn từ "Nam Xuân" đến "Nam Ai" rồi qua "Nam Đảo"(Đảo Ngũ Cung), tổng cộng 239 câu. Về sau, giới chơi nhạc tài tử giản lược những lớp trùng. Sau đó, hai nghệ nhân là Sáu Thoàng và Chín Chiêu đã chuyển lớp Trống Xuân từ hơi Xuân qua hơi Ai tiếp sau bản Nam Đảo và chuyển cung từ Hò Tư sang Hò Nhứt thành hai lớp "Song Cước"; Điệu thức Hạ (gọi là 7 bài nhạc Lễ hơi Hạ, còn được gọi là 7 bài Cò) gồm các điệu: "Xàng Xê", "Ngũ Đối Thượng", "Ngũ Đối Hạ", "Long Đăng", "Long Ngâm","Vạn Giá" và "Tiểu Khúc". Nhạc sư Nguyễn Quang Đại không những dạy nhạc tài tử, mà còn bổ sung và chấn chỉnh bộ môn nhạc Lễ. Ông đem 7 bài nhạc Lễ "tài tử hóa" từng bản một với ý nghĩa khác nhau. Bảy bài này cùng hệ thống điệu thức Bắc nhưng dùng chữ nhạc "Xề - Ú" làm âm chủ. Chúng có cấu trúc chữ đờn đối nghịch với hơi Bắc và phải lên dây nhạc (dây nhạc Lễ), lúc ấy sẽ thấy hơi Hạ khác hoàn toàn với hơi Bắc; "Điệu thức Oán" bao gồm: "Tứ Đại Oán", "Phụng Hoàng", "Giang Nam" và "Phụng Cầu". Đó là bốn bản chính thống của điệu thức Oán (còn gọi là Oán chánh). Đây là điệu đặc thù được sáng tạo tại vùng đất Nam Bộ. Ông Nguyễn Quang Đại chuyển hơi, chuyển cung và phát triển bản "Tứ Đại Cảnh" của âm nhạc miền Trung từ hơi Bắc dựng thành hơi Oán.

Hình ảnh các đội tham gia Liên hoan đờn ca tài tử tỉnh Long An nhân ngày giỗ cụ Ba Đợi.

Cho đến hôm nay, tất cả những làn điệu trong 20 bài bản Tổ cùng bộ Ngũ Châu và Bát Ngự được chia thành bốn điệu: Bắc, Nam, Hạ, Oán và bốn hơi: Xuân, Ai, Đảo, Ngự của ông vẫn còn được phổ biến trong giới chơi nhạc tài tử. Điểm cần nhấn mạnh về vai trò của ông Nguyễn Quang Đại là hầu hết ngôn ngữ âm nhạc trong nhạc tài tử đều được xây dựng trên nền tảng âm nhạc bác học (ngũ cung), tính triết học phương Đông cao trong nhạc, luật Âm - Dương ngũ hành (Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy) trong ngôn ngữ âm nhạc cũng như nhịp thức qua từng câu chẵn, lẻ thể hiện rất rõ ràng. Hầu hết các bản nhạc tài tử, câu trước nhịp "nội" thì giữa câu kế sẽ là nhịp "ngoại". Sự kết cấu êm đềm trong thanh âm không khác bài thơ có vần điệu là đặc trưng của nhạc tài tử Nam Bộ.

Với những công lao đóng góp cho việc gây dựng và phát triển nghệ thuật đờn ca tài tử, cố nhạc sư - nghệ nhân Nguyễn Quang Đại ("thủ lĩnh" của nhóm tài tử miền Đông), cùng với ông Trần Quan Quờn ("thủ lĩnh" nhóm tài tử miền Tây) xứng đáng được tôn vinh là hai "hậu tổ" của dòng âm nhạc tài tử Nam Bộ.

Phạm Thái Bình
.
.