Các văn nghệ sĩ Việt Nam qua nét vẽ của một nhà thơ Mỹ

Thứ Tư, 25/12/2013, 08:00
Tôi không chắc mọi người sẽ nghĩ gì. Trước hết tôi rất cảm kích vì cơ hội được biết đến những nhà văn này; và thứ hai, vì những sự kiện mới mẻ trong cuộc sống đã trở thành cơ hội để tôi có thể vẽ. Vì những cơ hội này tôi luôn biết ơn vợ tôi, Leslie và các con tôi, Mikes and Lily. Tôi cũng rất cảm ơn các bác sĩ và những người đã chăm sóc tôi cũng như các nhà văn đã và đang là nguồn cảm hứng cho những bức chân dung này. Tôi hy vọng là không ai bị phiền toái gì bởi những cố gắng của tôi...

LTS: Sáng 16/12/2013, tại Không gian sáng tạo Trung Nguyên - 52 Hai Bà Trưng, Hà Nội đã diễn ra Lễ khai mạc triển lãm tranh sơn dầu của nhà thơ Mỹ Kevin Bowen do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. Kevin Bowen là người từng nhiều lần sang thăm Việt Nam và có những hoạt động văn hóa gắn bó với đất nước và con người Việt Nam. Nhân dịp này, Chuyên đề VNCA xin giới thiệu bài phát biểu của nhà thơ Kevin Bowen tại Lễ khai mạc cuộc triển lãm nói trên, đồng thời giới thiệu những ghi chép ngắn của ông về các văn nghệ sĩ mà ông đã có tranh vẽ. Đi kèm với đó là những bức chân dung do Kevin thực hiện.

Một gương mặt của lịch sử 

Trong suốt hai mươi lăm năm qua, tôi vinh dự được đón tiếp những vị khách đến từ đất nước Việt Nam: Những nhà thơ, nhà văn, họa sĩ, học giả, và những người nổi tiếng, họ tới Boston và thường ở lại trong ngôi nhà của chúng tôi ở Dorchester và Dedham, Massachusetts, đôi khi là vài ngày, vài tuần hoặc vài tháng. Trong thời gian ở trong ngôi nhà đó, họ đã nấu ăn cùng chúng tôi trong bếp, chơi với con cái chúng tôi ở sân sau, ngồi cùng chúng tôi những buổi tối ngoài hiên nhà nhìn ra khu vườn, những khoảng không tĩnh lặng nơi họ chia sẻ những câu chuyện phong phú và mở ra một cánh cửa đi vào văn hóa, thi ca và lịch sử của đất nước họ. Mục đích của những bức tranh trong cuộc triển lãm này là đưa ra một gương mặt của lịch sử đó, bày tỏ lòng kính trọng tới những văn nghệ sĩ đã có những cống hiến xuất sắc cho đất nước, cho nghệ thuật và quá trình hòa giải giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.

Tôi không phải là một họa sĩ. Con đường đến với hội họa của tôi cũng thật phức tạp. Vào tháng 1/2008, tôi bị ngã và dẫn tới chấn thương ở não trái. Tôi đã bị mất một phần trí nhớ, lẫn lộn và không thể đọc hoặc viết trong thời gian dài, mất tập trung, và mất khả năng nhận thức. Hoàn cảnh đó thật khó khăn cho tôi và những người xung quanh tôi, đặc biệt là khi công việc của tôi chủ yếu là đọc, viết và giải quyết các vấn đề. Vợ tôi, Leslie, như mọi khi, đã giúp tôi, đảm bảo rằng tôi gặp đúng bác sĩ, khuyến khích tôi khám phá những cách thức khác để biểu cảm, cụ thể là với màu vẽ của vợ tôi.

Nhà thơ Kevin Bowen phát biểu tại một buổi tọa đàm văn học Việt - Mỹ do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức.

Một buổi sáng của tháng 12/2008, tôi xuống tầng hầm, cầm lên cây cọ vẽ của vợ tôi và bắt đầu quá trình dẫn tới cuộc triển lãm này. Những nỗ lực của tôi chủ yếu là nhằm vẽ chân dung những người thân yêu trong gia đình và bè bạn. Những nỗ lực này đã cho tôi một cách để tôi có thể giữ bạn bè và công việc ở gần mình khi mà họ không ở gần và khi tôi cảm thấy ở xa. Qua vẽ tranh tôi tìm ra một cách để thể hiện những điều mà tôi không thể kết nối và một cách để trở lại với ngôn ngữ và cuộc sống.

Khoảng thời gian tôi dành cho những bức chân dung này là sự đắm chìm vào vòng xoáy thời gian. Nó dẫn tôi tới những bộ ảnh cũ và những bức ảnh của họ ở bìa sau các cuốn sách. Mỗi bức chân dung trở thành một sự suy ngẫm về công việc và cuộc đời họ, về cuộc chiến tranh mà họ đã đi qua, cuộc chiến với những ngôn từ mà họ đấu tranh nhiều năm sau đó để mang theo những gì họ đã chứng kiến, với cuộc sống hai mặt mà họ với tư cách văn nghệ sĩ, trưởng thành nhưng không già đi, vẫn trẻ trung trong cuộc chiến cho dù thời gian có kéo họ đi.

Có lẽ vì lý do này, tôi đã vẽ những bức chân dung với những nền màu xanh lá khác nhau, màu xanh của những cánh rừng và màu xanh của những khu vườn. Ở đó những hình ảnh lung linh ẩn hiện, trông hiện thực hơn, không phải lúc nào cũng là những bức chân dung hoàn thiện, thường chỉ là những phác thảo, đang hoàn thiện, đang lớn dần, cuối cùng tới một nơi mà những bức chân dung này thuộc về, và quan niệm của tôi và có thể là quan niệm của người xem, sẽ tiếp tục phát triển và hoàn thiện chúng.

Tôi không chắc mọi người sẽ nghĩ gì. Trước hết tôi rất cảm kích vì cơ hội được biết đến những nhà văn này; và thứ hai, vì những sự kiện mới mẻ trong cuộc sống đã trở thành cơ hội để tôi có thể vẽ. Vì những cơ hội này tôi luôn biết ơn vợ tôi, Leslie và các con tôi, Mikes and Lily. Tôi cũng rất cảm ơn các bác sĩ và những người đã chăm sóc tôi cũng như các nhà văn đã và đang là nguồn cảm hứng cho những bức chân dung này. Tôi hy vọng là không ai bị phiền toái gì bởi những cố gắng của tôi. Cuối cùng, tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới nhà thơ Nguyễn Quang Thiều vì sự ủng hộ không mệt mỏi của ông, tới nhà thơ Hữu Thỉnh và Hội Nhà văn Việt Nam vì đã làm cho cuộc triển lãm này trở thành hiện thực.

Đôi lời vào tranh

Nhà văn Vũ Tú Nam

Khi tôi nói với Bruce Weigl rằng tôi đang vẽ một bức chân dung của Vũ Tú Nam, Bruce nói với tôi rằng tôi phải nhớ vẽ được nụ cười đó. Đó là nụ cười dường như bay về từ ngọn núi cao xanh thẳm, ôm lấy những người may mắn được thấy nụ cười đó. Tôi luôn nhớ lần đầu chúng tôi gặp nhau, với ông và Chính Hữu, và không bao giờ quên được sự tử tế của họ. Tôi vẫn có thể nghe được tiếng gà gáy ngoài cửa sổ khi tôi phỏng vấn ông năm 1992, khi ông kể cho tôi nghe về lá thư ông viết cho vợ lúc đang gia nhập với những người theo đạo Thiên Chúa miền Bắc. Tôi cố gắng nắm bắt lấy vẻ lịch lãm và sức mạnh bao quanh ông, cũng như cảm giác của một người đàn ông mặc dù truởng thành nhưng cũng không lạ gì với sự hóm hỉnh như một cậu bé.

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng

 

Vì một vài lý do, khi tôi vẽ Sáng, tôi cảm thấy như mình đang cố nắm bắt một sức mạnh có thể có của một con người. Mỗi lần gặp Sáng, ông luôn tỏ ra là trung tâm của một vòng tròn năng lượng lớn. Mọi người gặp ông đều biết đến tiếng cười của ông. Tôi luôn liên hệ Sáng với âm nhạc. Tại Boston, tôi vẫn nhớ lúc ngồi ngoài vườn khi ông hát những bài hát cũ của Trịnh Công Sơn cùng những người bạn. Tại Sài Gòn, tôi vẫn nhớ lúc lắng nghe piano của con gái một người bạn từ cửa sổ vào một con ngõ nhỏ khi chúng tôi ngồi ngoài đó quay thịt lợn. Chúng tôi đã có rất nhiều buổi tối muộn với nhau, bao gồm cả những hôm tôi quan sát ông chơi bóng rổ ở sân sau nhà tôi. Tôi cố gắng nắm bắt những điều đó trong bức chân dung đầu tiên. Rồi sau khi tới thăm ông tại nhà mới, nhìn thấy chiếc võng rừng cũ của ông trong phòng làm việc của ông, bàn làm việc với những bức ảnh ông hồi trẻ trong rừng, tôi quan sát ông ôm đứa cháu mình. Lúc đó tôi biết là mình cần phải vẽ một bức chân dung thứ hai của ông khi còn trẻ.

Nhà thơ Hữu Thỉnh

Một trong những kỷ niệm sống động nhất của tôi là về Hữu Thỉnh, Lê Minh Khuê, và Nguyễn Quang Thiều bước xuống máy bay, bước đi trên con đường vào ngày họ tới Boston. Họ tới thăm và tạo ra một mối liên kết vẫn tồn tại ba mươi năm sau. Ban đầu chúng tôi cũng hơi hồi hộp vì chức vụ cao và quá khứ hoành tráng của ông nhưng vào một ngày ông vào bếp nhà tôi với chiếc mũ dạ và bộ đồ ngủ thì tôi biết rằng chúng tôi sẽ trở thành bạn lâu dài. Thường vào buổi sáng, ông đưa tôi ra vườn và dạy tôi những bài tập để bảo đảm sức khỏe, vào buổi trưa ông thường kể chuyện và nấu ăn. Ông còn giúp chúng tôi đóng một chiếc gương trước cửa chính để phản lại khí xấu vì ông lo lắng vấn đề phong thủy của nhà tôi. Ông cũng thường  trông chừng mỗi khi con trai tôi chơi ở sân sau. Một trong những kỷ niệm đẹp nhất của tôi mới chỉ hơn một năm trước đây khi chúng tôi cùng đi ăn tối ở Hà Nội, Thỉnh và vợ ông, tôi cùng vợ tôi Leslie, con gái tôi Lily và hai cô con gái ông. Tôi vẽ bức chân dung này cũng với bức ảnh chụp năm 1990 tôi dùng để vẽ chân dung Phạm Tiến Duật. Những nhà thơ của chiến tranh, những đôi mắt đầy niềm vui và nỗi buồn, tình bằng hữu, những điều kỳ diệu, và sự mất ngủ triền miên.

Nhà văn Lê Lựu

Lê Lựu là nhà văn đầu tiên chúng tôi gặp tại Việt Nam. Ông là người dẫn đường và là đại sứ của chúng tôi. Vào cuối những năm 80, ông dẫn chúng tôi tới thăm những ngôi nhà mù tối vào ban đêm, những ngôi làng của những cựu binh tật nguyền, tới gặp những cựu binh khác nơi mà chúng tôi xếp những núi bia và thuốc lá, những thứ hàng hiếm trên bàn. Ông là người đầu tiên tới và thăm chúng tôi tại Hoa Kỳ, du lịch quanh đất nước, gặp những cựu binh và nhà văn tại những vùng chưa được thám hiểm. Cũng giống như những gì ông đã làm trước chiến tranh, khi ông được gửi lên biên giới để trao đổi thực phẩm với những người lính khác. Tôi đã tìm những hình ảnh của Lê Lựu thời trẻ cho bức chân dung, cố gắng lột tả người đàn ông có thể là Sài hoặc anh trai ông trong "Thời xa vắng," có thể là một anh hùng, một cậu bé quê, ngây thơ nhưng cũng thông thái dần qua thời gian, không thoải mái lắm trong bộ com lê, nhưng luôn biết rằng ông có nhiệm vụ phải trình diễn.

Nhà văn Lê Minh Khuê

Khuê là nhà văn nữ đầu tiên tới thăm chúng tôi. Tôi nhớ bà rất rõ từ hội nghị năm 1990 khi bà nghiêng người qua bàn và nhìn vào đoàn nhà văn Hoa Kỳ toàn đàn ông chúng tôi và hỏi "Phụ nữ của các ông đâu?" Khi bà tới Hoa Kỳ, con gái tôi Lily mới chỉ hai tháng tuổi, rất nhiều kỷ niệm của tôi thời gian đó là về Khuê với hình ảnh bà bế con gái tôi. Có khoảng một tá nhà văn ở chung trong hai căn nhà cạnh nhau tại Dorchester trong vài tuần đó, sau mỗi cuộc hội thảo và đọc sách, họ thường ngồi ngoài hiên nhà mỗi buổi tối mát trời và sau đó, đó là cuộc gặp gỡ lần đầu của những cựu binh phía "bên kia". Bản phác thảo này là dựa trên một bức ảnh tôi chụp trong những ngày đó. Trong đó, Khuê, Carolyn Forche, Linda Vandervanter, một y tá tại Việt Nam trong chiến tranh, và Lady Borton ngồi quanh một bàn ăn trong bếp nhà tôi. Cái nhìn trên gương mặt mỗi người họ nói với tôi về khả năng chiến thắng của sự thân ái và lòng trắc ẩn chung sau nhiều năm chiến tranh. Tôi đã cố gắng đưa những đìều đó vào bức chân dung. Tôi đã thấy cũng cái nhìn đó nhiều năm sau khi Carolyn và Khuê gặp lại nhau tại Hà Nội.

Nhà văn Trung Trung Đỉnh

Trung Trung Đỉnh và tôi có vài điểm chung, trong đó một vài lần trong cuộc chiến ở An Khê, trên vùng cao miền Trung. Với tôi đó chỉ là một tuần, với Đỉnh đó là mười năm, khi mà dịch sốt rét bỏ ông lại đó với những người dân vùng cao khi mà đơn vị của ông từ miền Bắc đã chuyển đi. Ông phục vụ với tư cách người quan sát và liên lạc viên, người miền Bắc duy nhất trong đơn vị. An Khê dường như là một nơi ma quái đầy sương mù và những điều kỳ bí trong vài ngày tôi ở đó trong cuộc chiến.

Tôi vẫn nhớ rằng mình đã rất ấn tượng với những bài thơ đầu tay của ông khi được ông chia sẻ. Ông đã đọc những bài thơ đó cùng Bruce Weigl trong một buổi tối đáng nhớ. Vài năm trước tôi tới thăm Trung Trung Đỉnh tại nhà ông. Lúc đó đã tối muộn và chúng tôi phải đi qua những con hẻm để tìm tới nhà ông. Tôi đã chụp ảnh ông tối hôm đó, nhưng cho dù đang ở giữa lòng Hà Nội, với tôi ông dường như vẫn đang ở ngoài đó giữa rừng quan sát và quan sát như chỉ một nhà văn mới có thể. Những chuyển động của ông mang theo ánh sáng sống động nên ông cần phải di chuyển qua những khu rừng vùng cao trong suốt cuộc chiến. Tôi đã cố nắm bắt những điều đó trong bức chân dung.

Nhà văn Bảo Ninh

Khi vẽ Bảo Ninh, tôi cứ nhớ đến vài dòng trong bài thơ Trần Ninh Hồ đọc tại hội nghị năm 1990, "sau trận chiến, khi tôi đi tìm một người bạn, tất cả những người khác đều là người lạ". Tôi nghĩ tôi chưa bao giờ thấy cái nhìn tìm kiếm đó trên gương mặt Bảo Ninh.

Có người nói rằng câu chuyện của ông về việc sống sót qua chiến tranh được viết trên gương mặt ông. Nhưng tôi vẫn không thể không cảm thấy rằng gương mặt đó vẫn đang tìm kiếm để viết một câu chuyện khác. Dù là trường hợp nào thì vẫn có một luồng điện ông luôn mang theo, một nguồn năng lượng sẵn sàng bùng nổ ngay cả trong những khoảnh khắc lặng lẽ, sẵn sàng tìm đường quay trở lại thế giới, vào từng câu chữ và những câu chuyện của ông. Đó là một sự bùng nổ mặc dù phần lớn rất thoải mái và đúng đắn. Tôi đã cố mang những điều này vào chân dung ông. Ông là chủ đề của rất nhiều bức chân dung, thậm chí cả bức vẽ đôi dép lê ông để lại nhà chúng tôi ở Dorchester.

Nhà văn Y Ban

Tôi nhớ rất rõ lần Y Ban tới Boston. Cô là một trong rất nhiều nhà văn trẻ tới và thăm đất nước tôi trong chuyến đi đó. Cuộc hành trinh từ Việt Nam tới Hoa Kỳ rất dài và mệt mỏi, nhưng cô đã tới, với gương mặt sáng, háo hức, khích lệ chúng tôi, giúp chúng tôi chuyển hành lý vào xe.

Trong những buổi họp, những cuộc phỏng vấn, những điểm dừng dọc đường từ Boston tới New Ỷok tới thủ đô Washington tới Charlottesville, cô là người có giọng nói rõ ràng, hòa nhập nhất. Cô có trí thông minh sắc sảo, đôi khi như trêu chọc, chờ đợi để được đối đầu với thử thách hoặc một sự lĩnh hội.

Tôi đặc biệt nhớ lần cô xử lý trường hợp một cuộc nhà báo bảo thủ khi ông có ý định dồn cô vào cuộc tranh luận phê bình đất nước cô mà ông sẽ đưa vào bài báo của mình. Ông không bao giờ ngờ được là đã gặp phải ai, sau đó ông gặp tôi bên ngoài và nói "Cô ta thông minh thật." Tôi đã cố gắng đưa một chút sự thông minh đó và bức vẽ

Nghệ sĩ Chu Lượng

Kỷ niệm của tôi về những ngày với Chu Lượng là rất nhiều và tất cả đểu vui vẻ. Bất kỳ ai từng gặp ông đều có thể nói rằng, ông có rất nhiều điểm đặc biệt, một người đàn ông mà cuộc đời và lẽ sống là cây cầu nối giữa thế giới xưa và nay.

Cùng với Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quyến và Lương Tử Đức, ông đã dựng lên một nhà hát rối nước có thể di chuyển được để mang tới Mỹ. Trong hai tháng, bốn người họ đã làm việc và biểu diễn cho trẻ em và học sinh quanh Boston, tới thăm các lớp học, dạy các em cách khắc những con cá và ếch gỗ.

Tôi đã quan sát trong kinh ngạc khi ông thôi miên lũ trẻ với phong thái của một nhà ảo thuật lớn. Bột màu đất có lẽ là hợp với ông, màu đen, trắng và xám của sự lao động chân tay phía sau màn ảnh bất ngờ chuyển thành màu sắc rực rỡ trên sân khấu. Sự vô thời gian của cách viết và điêu khắc này, sự kiên nhẫn qua thời gian đã đi vào thực hiện sự bất diệt của lối sống thông qua nghệ thuật

Nguyễn Thị Tuyết Ngân (chuyển ngữ)
.
.