Bộ phim “Truyền thuyết về Quán Tiên”: Vấn đề thuộc về nhân loại

Thứ Bảy, 06/06/2020, 07:47
Phim về chiến tranh, nói về con người và hệ lụy của tình yêu bị chiến tranh tàn phá, văn học và điện ảnh thế giới đã nói nhiều. Một số phim của Việt Nam cũng khai thác thành công tới tối đa mặt bi kịch của con người ở lĩnh vực tình yêu trong chiến tranh...


Truyện ngắn "Truyền thuyết về Quán Tiên" của Xuân Thiều năm nào vừa sau chiến tranh bàn về chiến tranh làm xôn xao dư luận. Chiến tranh chống Mỹ lùi xa gần 50 năm, một đạo diễn trẻ 31 tuổi xuân đã đồng cảm với nhà văn tạo nên cuốn phim cùng tên "Truyền thuyết về Quán Tiên" hơn 1h đồng hồ.

Cơ bản trung thành với diễn tiến của tác phẩm văn học, bám chắc xoáy quanh thông điệp của tác phẩm văn học đưa ra, đạo diễn Đinh Tuấn Vũ với ngôn ngữ điện ảnh thêm một góc chiếu đậm sâu bàn về chiến tranh, một thử thách không hề nhẹ với một đạo diễn trẻ, thuộc thế hệ không hề tham gia cuộc chiến.

Tôi xem phim với hai tư cách. Một là với tư cách khán giả, là người lính từng trải, 11 năm chiến trận thì 9 năm ở rừng. Hai là với tư cách nhà văn, cũng là người yêu quý nhà văn Xuân Thiều nên sự quan sát từ văn bản văn học đến văn bản điện ảnh về "Truyền thuyết về Quán Tiên" xem hay dở đến đâu. Do vậy, những gì bàn về phim chiến tranh, có lẽ tôi thuộc dạng khán giả khó tính.

Suốt hơn một giờ đồng hồ, khán giả được xem lại sự tái hiện cảnh trí cảnh tình của cuộc chiến ở những cung đường Trường Sơn. Các nhà làm phim đã dựng lên một mảnh của đời sống chiến tranh - đường vận tải Trường Sơn một cách đáng khen ngợi. Phim chiến tranh của chúng ta bấy nay mắc hai lỗi quen thuộc. Lỗi đầu là sơ sài trong dựng cảnh, phục trang.

Những cảnh trong phim “Truyền thuyết về Quán Tiên”.

Có thể là sự kém hiểu biết, có thể là do sự ẩu tả của kíp làm phim, nên vài phim về chiến tranh đã tạo ra những cảnh trí không như cảnh trí trong cuộc chiến. Thứ hai, một vài phim giả đến sống sượng cả về tâm lý chiến tranh. Sự thi vị hóa hay xơ cứng về tuyên truyền cũng tạo ra điều không có thật trong tâm trạng binh sĩ. Đây là lỗi nặng đáng bàn, làm cho bộ phim không còn tin cậy nữa, sự tuyên truyền xơ cứng cũng hoàn toàn phản tác dụng và có thể những thước phim sơ sài hay cường điệu ấy dễ làm tổn thương anh em cựu binh sĩ.

Đoàn làm phim mà Đinh Tuấn Vũ làm đạo diễn đã không phạm phải khuyết điểm ấy. Tôi được sống thực lại với các cung đường Trường Sơn bị tàn phá, những chuyến xe vận tải binh đoàn Trường Sơn 559 ngụy trang giống thật, chi tiết của quá khứ được nghiên cứu thận trọng. Không khí chiến tranh ở các binh trạm, cung đường ở trong cảnh trí được đạo diễn và diễn viên phụ và chính tạo nên khá thành công, thành công từ đối thoại, đến cả sự diễn tâm lý nhân vật. Những điều ấy đã làm nên những thước phim sống động.

Câu chuyện được đoàn làm phim khai thác hợp lí, nó không chỉ tạo ra cảm giác thật khi kể lại một câu chuyện lịch sử, mà chính không khí còn tạo ra sự cuốn hút, hấp dẫn mà với các loại hình nghệ thuật thì sự hấp dẫn phải là tiêu chí số một.

Ở đây phải biểu dương các diễn viên nữ tham gia đóng phim này. Đó là Đỗ Thuý Hằng, Hồ Minh Khuê, Hoàng Mai Anh đã diễn rất tốt, tạo ra cá tính đậm nét của từng nhân vật, xử lí rất nhuần nhuyễn, hợp lí từng cảnh huống. Diễn biến tâm lí của nhân vật nữ Tổ trưởng trạm Quán Tiên được chuyển hóa từng bước, từ sợ hãi chú Vượn bị mất cả gia đình, đến lắng nghe đời sống sinh vật trong rừng mà không còn sợ hãi nữa, chủ động giao tiếp với con vượn đau khổ, giao tiếp với thế giới tự nhiên được diễn thật nhuần nhuyễn hợp lý. Nhưng cái đáng bàn nhất ở phim là tinh thần của bộ phim khi bàn đến chiến tranh trong một giác độ mới.

Phim về chiến tranh, nói về con người và hệ lụy của tình yêu bị chiến tranh tàn phá, văn học và điện ảnh thế giới đã nói nhiều. Một số phim của Việt Nam cũng khai thác thành công tới tối đa mặt bi kịch của con người ở lĩnh vực tình yêu trong chiến tranh.

Gần đây, phim "Người trở về"  của nữ đạo diễn Đặng Thái Huyền đã khai thác rất thành công về đề tài này trong một góc nhìn khác. Những vấn đề điện ảnh đã đề cập mới không chỉ trong mối quan hệ giữa con người với con người. Hệ lụy chiến tranh làm cho tình yêu tan nát, đau khổ, chia li. Những con tàu không bến đỗ. "Truyền thuyết về Quán Tiên" không chỉ dừng lại ở những sự mất mát ấy.

Ba cô gái trong phim có ba mối tình. Trạm trưởng thì chồng hy sinh. Cô gái thứ hai yêu đồng đội có chửa, ảnh hưởng tới nhiệm vụ, bị kỉ luật. Cô gái đội viên trẻ nhí nhảnh xinh tươi nhất có một mối tình lãng mạng với người lính lái xe... và rồi anh lính hy sinh. Nếu phim chỉ dừng lại như thế thì đạo diễn Đinh Tuấn Vũ cũng chỉ là đi theo một vết xe cũ.

Vấn đề của phim đã vượt ra khỏi cái kích cỡ thông thường khi soi rọi về mảng tình yêu, hạnh phúc trong chiến tranh. Ở đây, không chỉ con người là ba cô gái đau khổ. Chiến tranh không chỉ tàn phá riêng hạnh phúc của loài người. Trong khu rừng Trường Sơn ấy xưa là nơi an lành của mọi sinh vật. Có một bầy vượn đã hạnh phúc và bom đạn đã giết sạch gia đình vượn.

Câu chuyện bẻ lái cho người ta suy nghĩ sâu sắc hơn, khi cô gái Trạm trưởng đặt vào hoàn cảnh ấy và từ chỗ sợ hãi con vượn hay chú ý mình, thậm chí vượn hái quả rừng tiếp tế cho các cô gái và rồi người Trạm trưởng khi nghe kể lại câu chuyện của gia đình bầy vượn qua một anh lính đã thay chuyển thái độ. Chị không còn sợ hãi nữa mà giao tiếp với chú vượn, bày tỏ sự chia sẻ với sự mất mát đau thương của một loài động vật cao cấp.

Sự thể hiện của đạo diễn đúng độ, có giới hạn, không cảm tính trong sự chia sẻ của cô gái Trạm trưởng tạo nên tính người được tô đậm đến lạ, xuất sắc mà bao nhiêu phim trước đó chưa bao giờ đề cập. Đây chính là điều khác lạ đầy tính nhân văn của phim. Vậy là chiến tranh không chỉ tàn phá hạnh phúc của loài người. Chiến tranh lạnh lùng đã phá hủy tất cả, đẩy sự đau khổ trên hành tinh này cho muôn loài, buộc chú vượn đực mất hết gia đình, tìm đến sự chia sẻ của con người và, con người đã thông cảm thấu hiểu nỗi niềm ấy.

Đây là điều lớn nhất, lạ nhất, sắc sảo nhất mà phim "Truyền thuyết về Quán Tiên" đã làm được, từ một đạo diễn trẻ 31 tuổi đời.

Tôi rất xúc động khi các nhà làm phim xử lí cảnh chú vượn chết. Đôi mắt đẹp của loài vật được cận cảnh nói lên cái chết oan khuất đau đớn, cộng hưởng với diễn xuất về nỗi đau của  nữ diễn viên Tổ trưởng đã chạm đến trái tim tôi và khán giả.

Đoàn làm phim "Truyền thuyết về Quán Tiên" đã tạo nên một dư chấn mới, khai thác thể tài Tình yêu trong chiến tranh hoàn toàn mới. Đó cũng không chỉ là sự lên án chiến tranh một cách xơ cứng mà nó ít nhiều tạo ra giá trị của bản anh hùng ca cho một dân tộc biết hy sinh để làm nên sự nghiệp Thống nhất non sông và Độc lập cho nước nhà.

Nói như thế không có nghĩa bộ phim quá hoàn chỉnh. Vài cái lỗi nhỏ có thể khắc phục được cho phim càng gần với sự thật của lịch sử đã diễn ra. Ví dụ ở Trường Sơn, binh trạm không nơi nào có bàn gỗ, chúng tôi chỉ toàn bàn tre hay lồ ô. Ví dụ trên Trường Sơn không có bán mua bằng tiền, chỉ cung cấp hoàn toàn miễn phí. Ví dụ đoạn cuối, ngay sau khi chú vượn chết, không cần một trường đoạn dài lê thê đến vậy. Văn chương hay các loại hình nghệ thuật khác theo tôi có lẽ nói đủ là quan trong nhất. Đã đủ rồi là dừng, đóng máy.

"Truyền thuyết về Quán Tiên" là một bộ phim khá, đạt được những điều bất ngờ như tôi nói trên. Nó chứng tỏ rằng, những người trẻ nếu biết lắng nghe nữa, đào sâu nữa, sẽ gặt hái những tác phẩm xứng đáng với thời đại mà chúng ta đã sống, đang sống và sẽ có những tác phẩm với nghệ thuật bất tử.

Ngọc Hà. 29-05-2020

Nguyễn Văn Thọ
.
.