Đầu năm thăm quê Hải Thượng Lãn Ông

Thứ Sáu, 19/02/2016, 07:40
Đầu năm 2016 chúng tôi có dịp về thăm quê Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác - Một đại danh y của dân tộc. Đây là quê ngoại của ông. Bởi ông sinh ra ở thôn Văn Xá, Phủ Thượng Hồng, Hải Dương (nay là xã Lưu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Tuy nhiên cuộc đời ông phần nhiều (đặc biệt là từ năm 26 tuổi đến lúc mất), gắn bó với quê mẹ ở thôn Bầu Thượng, xã Tịnh Diễm, Phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh). Vì thế tôi mới hiểu vì sao ông đặt tên hiệu "Hải Thượng Lãn Ông" là hai chữ đầu của tỉnh Hải Dương và Phủ Thượng Hồng quê cha và xã Bầu Thượng quê mẹ. 


"Lãn Ông" nghĩa là "Ông lười" ngụ ý lười biếng, chán ghét công danh, tự giải phóng mình khỏi sự ràng buộc của danh lợi, của quyền thế để được tự do nghiên cứu y học, thực hiện chí hướng mà mình yêu thích.

Trước lúc lên Hương Sơn, tôi đã tìm đọc cuốn sách "Thượng kinh ký sự" của Hải Thượng Lãn Ông. Thật lạ, ngày xưa học chuộng về từ chương, không mấy ai viết văn tự sự kể những việc hằng ngày. Có lẽ đây là một trong những cuốn sách hiếm hoi trong nền văn học cổ, người thực chép việc thực. Ông Phan Võ - người dịch cuốn này từ chữ Hán - đã nhận xét: "Văn của Lãn Ông là một lối văn tinh tế. Ngó qua thì hơi lạt, nhìn kỹ thì rất  sinh động. Nó cũng như con người Lãn Ông, ngó qua tưởng đó là kẻ tu hành muốn trốn việc đời. Lúc nhìn kỹ lại là một người hồn nhiên vui vẻ, rất tha thiết với cuộc sống, rất yêu đời".

Tượng danh y Lê Hữu Trác tại khu tưởng niệm xã Sơn Trung, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh.

Từ thị trấn Phố Châu qua sông Ngàn Phố đến Sơn Diễm chúng tôi vào thăm vườn đào Hải Thượng Lãn Ông. Vườn đào này được ông trồng sau khi về quê mẹ. Qua ba thế kỷ vườn đào vẫn còn lưu giữ núi Giả và hồ Sen nằm ở góc vườn. Núi Giả cao 4m diện tích gần 50m2 là nơi Hải Thượng Lãn Ông dùng làm chỗ quan sát hướng gió, xem thời tiết để bắt mạch kê đơn chữa bệnh.

Trước đây trên đỉnh núi Giả còn có cây cột mà đại danh y thường cắm lá cờ đuôi nheo để biết hướng gió thời tiết ngắm sao thiên văn cho việc chẩn trị y mạch. Cây cột còn là nơi buộc dây diều mà trên cánh diều gắn với ống sáo diều chúa Trịnh Sâm ban tặng lúc đại danh y ra kinh chữa bệnh cho chúa. Lê Hữu Trác lúc còn sống đã có lần nhắn gửi với con cháu: Diều đứt dây rơi xuống chỗ nào thì sau này đặt mộ huyệt của ông ở đó.

Vào khoảng năm 1750, đại danh y cho ươm đào và nhân giống đào phai của địa phương. Gốc và cành đào có màu đồng hun. Giống đào hoang dã này mọc nhiều ở dãy núi Nen của địa phương. Cây đào to, tán rộng, nhiều cành, hoa năm cánh màu hồng phai. Quả đào nhỏ, hạt nhỏ, nhiều lông, lúc chín vỏ màu vàng. Hải Thượng Lãn Ông trồng đào không chỉ để chơi hoa mặc dù hình ảnh hoa đào nhiều lần xuất hiện trong thi tứ của ông và cũng là loài hoa mang sắc thái tượng trưng cho ngày tết của dân tộc.

Ông trồng đào, vì cây đào cũng là một cây thuốc quý. Lá đào sắc chữa nhọt, hạt đào chữa bệnh phụ nữ có trong các bài thuốc của Hải Thượng Lãn Ông. Khu vườn đào rộng 6 mẫu nằm cạnh Sông ngàn phố nay là khu vườn nhà thờ Hải Thượng. Ngôi nhà thờ 3 gian (Gỗ xoan, mít, tứ trụ có chạm khắc và cánh cửa pa - nô có cảnh xuân, hạ, thu, đông và long, ly, quy, phượng). Ngôi nhà thờ ba gian này do người dân xã Sơn Hà cung hiến. Trong nhà thờ ngoài bàn thờ có bộ ngũ sự bằng đồng và nhiều di vật thì bức di ảnh của Lê Hữu Trác được phóng to treo một cách trang trọng là di vật quý giá nhất.

Ông Lê Hữu Quý cũng là lương y, cháu đời thứ sáu của đại danh y cho tôi biết một chi tiết rất thú vị về bí mật của tấm di ảnh rất đẹp, rất thần này. Có một học trò vì quá yêu quý thầy nên đã tìm gỗ mít nghệ - một loại gỗ quý hiếm ở đất Hương Sơn, lặng lẽ tạc tượng thầy bằng tất cả tình cảm với đôi bàn tay tài hoa của mình. Bức tượng đã được thổi vào đó những đường nét rất sống động, được người đương thời khen là đẹp và giống Hải Thượng Lãn Ông. Những tấm ảnh chân dung sau này đều họa lại từ bức tượng đó, chứ hồi đó làm gì có máy ảnh để chụp. Hiện nay bức tượng được con cháu họ Lê Hữu đem về thờ bên nhà thờ họ ở Hưng Yên.

Về thăm quê ngoại của Hải Thượng Lãn Ông tôi cứ hình dung ra nơi đây hình thành một tam giác mà ba đỉnh là ba di tích đặc biệt gắn với cuộc đời ông. Một đỉnh đó là quần thể di tích đại danh y: khu mộ, khu tượng đài, khu đón tiếp. Ông qua đời vào ngày rằm tháng giêng năm Tân Hợi (1791) tại thôn Bầu Thượng thọ 71 tuổi. Mộ ông nằm ở khe nước cạnh chân núi Minh Tự thuộc xã Sơn Trung. Đỉnh tam giác thứ hai là nhà thờ và vườn đào Hải Thượng Lãn Ông. Còn đỉnh thứ ba có liên quan đến đời tư của Lê Hữu Trác là chùa Tượng Sơn.

Qua tìm hiểu và soi chiếu với "Thượng kinh ký sự" tôi mới biết đại danh y có một mối tình trắc trở với một người con gái ở quê cha. Và có lẽ từ đó ông có duyên căn với những ngôi chùa, với phật giáo. Bởi suy cho cùng, trong triết lý của nhà phật bao giờ cũng đề cao cái thiện như đạo lý của nho y vậy. Chùa Tượng Sơn được xây vào đời Hậu Lê, đời Lê Dụ Tông (đầu thế kỷ XVIII) theo ý tưởng của bà đại danh y là bà Đặng Phùng Hầu - vợ của Quận Công Bùi Tướng Công. Chùa được xây dựng dưới sự trực tiếp chỉ đạo của Hải Thượng Lãn Ông và Lê Hữu Tản.

Trong những năm 1760 - 1786, Hải Thượng Lãn Ông đã dành phần lớn thời gian lưu lại chùa mở phòng mạch chữa bệnh cho dân và hoàn thành các tác phẩm sách thuốc của mình. Lúc chúng tôi đến chùa mới được trùng tu lại khang trang. Phía trước chùa vẫn là con sông Ngàn Phố hiền hòa. Phía sau chùa có dãy núi Voi nên đặt tên là "Tượng Sơn Tự" (Chùa núi Voi). Phía tây ngay bên chùa là khe suối bắt nguồn từ dãy núi Đại Huệ băng qua ghềnh đá ngày đêm nước chảy ầm ầm, nên chùa còn có tên là "Chùa ầm ầm". Sư thầy Thích Ngộ An dẫn chúng tôi đi thăm vườn chùa. Đặc biệt ở đây còn có cây vải thiều, do Lê Hữu Trác mang từ quê cha vào trồng cách đây 300 năm. Cây vải cổ thụ xanh tốt như một cụ già quắc thước đến mùa vẫn chíu chít cho con cháu những chùm quả ngọt lúc lỉu. Vải cũng là một loại quả thuốc ngày xưa là đặc sản tiến Vua.

Tác giả bên mộ danh y  Lê Hữu Trác.

Trở lại với mối tình đầu của đại danh y, một dịp gần  đây tôi về Hưng Yên và được nghe người làng Liêu Xá kể lại: Năm 62 tuổi, đại danh y được lệnh chúa triệu về kinh chữa bệnh cho Trịnh Cán, Trịnh Sâm. Trong thời gian gần một năm ở kinh đô, ông đã về thăm cố hương Hưng Yên của mình sau hơn 40 năm xa cách. Ông xúc động khi biết rằng người năm xưa mình đã từ hôn vẫn còn đây, vẫn nồng nàn chung thủy bằng cách xuống tóc đi tu, nguyện một đời nhớ thương người chồng chưa cưới của mình.

Cuộc tái ngộ sau 40 năm cách biệt, Hải Thượng Lãn Ông xin rước bà về gõ mõ tụng kinh ở chùa Tượng Sơn nhưng bà đã khéo léo từ chối. Bà chỉ xin ông: "nghe nói Hoan Châu có nhiều gỗ tốt và rẻ, xin nhờ mua giúp cỗ quan tài". Vị sư nữ muốn yên giấc trong quà tặng tình yêu của bậc đại danh y, dù là tình yêu một bề thánh thiện. Lê Hữu Trác lập tức sai người đi tìm mua món quà theo tâm nguyện của bà. Nhưng vì thời gian gấp quá nên chưa mua được. Kịp đến khi chuẩn bị về quê ông đã gửi lại 5 quan tiền để nhờ người mua cỗ áo quan tặng bà.

Về thăm quần thể di tích Hải Thượng Lãn Ông đầu năm này, chúng tôi bất ngờ khi bắt gặp khu du lịch sinh thái Hải Thượng. Đây là khu du lịch văn hóa liền kề với khu di tích Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Hằng năm vào rằm tháng giêng, khách du lịch gần xa đổ về đây dự lễ hội rất đông. Và trên đỉnh núi cao lộng gió ngàn là bức tượng toàn thân của đại danh y cao 14m, nặng khoảng 30 tấn bằng đá hoa cương được dựng trên núi Minh Tự cạnh mộ ông.

Đại danh y đứng đó trong gió ngàn đua hương khoe sắc nhìn về xa vời vợi. Trước ngực ông là bộ sách một đời làm thuốc ông đã tích lũy chắt lọc, để lại cho đời bộ "Hải Thượng y ông tâm lĩnh" gồm 28 tập, 66 cuốn, là tinh hoa y học cổ truyền. Đây là bộ sách thuốc được đánh giá công trình y học xuất sắc nhất trong thời trung đại Việt Nam và cuốn "Thượng kinh ký sự" là một tuyệt tác về văn học cổ. Ông nhìn ra xa, khu vườn đào Hải Thượng Lãn Ông chợt lấp lánh những giọt nắng ngọt hiếm hoi cuối đông, đầu xuân. Hình như nơi này mùa xuân đến sớm…

Nguyễn Ngọc Phú
.
.