Vẫn tiếng làng, tiếng nước của riêng ta

Thứ Hai, 29/01/2018, 08:16
Lưu Quang Vũ không chỉ nổi tiếng là nhà viết kịch tài năng mà còn là thi sĩ có những bài thơ được bạn đọc nhớ lâu như "Vườn trong phố", "Tiếng Việt"… Tôi đọc bài "Tiếng Việt" đã lâu, nay vẫn thích bởi thi phẩm có tính khái quát cao, độ xúc cảm sâu và lấp lánh nhiều thi ảnh. 


Tiếng Việt, thứ ngôn ngữ đa thanh có sức biểu đạt phong phú mang trong nó những trầm tích lịch sử, văn hóa lâu dài và cực kỳ bền vững của dân tộc mình. Đó chính là "Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt", là tấm chứng minh thư của con cháu Rồng Tiên khi bước ra với nhân loại bao la. Tiếng Việt, nói như Lưu Quang Vũ muôn đời "Vẫn tiếng làng, tiếng nước của riêng ta".

Cái hay của bài thơ là thông qua hình tượng "Tiếng Việt", đất nước và nhân dân hiện lên thật gần gũi, thân thiết. Một không gian thuần Việt chứa đựng những thăng trầm của dân tộc, vừa anh hùng vừa bi thương, khi hiền hòa khi giông bão, lúc binh đao lúc thái bình. Khi tiếng Việt cất lên ta nghe trong đó nhiều cung bậc của cuộc sống mà trước hết là lòng yêu đất nước, quê hương được gìn giữ, truyền lưu từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Tình yêu Tổ quốc bắt đầu từ những cái cụ thể, thân quen nhất: "Tiếng Việt gọi trong hoàng hôn khói sẫm/ Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về/ Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm/ Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre". Đấy chính là làng quê Việt gắn liền với nền văn minh lúa nước đằng đẵng mấy nghìn năm, nói bao nhiêu cũng không hết được những cơ cực, tảo tần: "Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng/ Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya/ Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng/ Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê".

Nhà thơ Lưu Quang Vũ và bản thảo viết tay bài thơ “Tiếng Việt”.

Tiếng Việt khởi nguồn và lan tỏa cùng với công cuộc dựng nước, giữ nước của nhân dân, cùng những dấu yêu, thương mến nảy nở sinh sôi trong từng gia đình, làng xã để Tổ quốc văn hiến mãi mãi được sinh tồn, mãi mãi phát triển dù phải trải qua bao cuộc bể dâu, binh biến kinh hoàng.

Bằng những hình ảnh thơ đầy ám ảnh, Lưu Quang Vũ đã nói lên được điều đó: "Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa/ Khi hun thuyền, gieo mạ, lúc đưa nôi/ Tiếng mưa dội ào ào trên mái cỏ/ Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời/ "Đá cheo leo trâu trèo trâu trượt"/ Đi mòn đàng dứt cỏ đợi người thương/ Đây muối mặn gừng cay lòng khế xót/ Ta như chim trong tiếng Việt như rừng". Chất dân gian thấm đẫm mỗi câu thơ, rưng rưng ngấm vào từng âm thanh, hình sắc, mùi vị. Câu "Ta như chim trong tiếng Việt như rừng" thật tài hoa bởi thủ pháp so sánh vừa lạ, vừa đẹp.

Lưu Quang Vũ đã làm được một điều rất khó là phác họa những đặc trưng ngôn ngữ Việt bằng thơ. Đó là thứ tiếng tuy ngữ pháp khó như "phong ba bão táp" nhưng sức biểu đạt của nó rất phong phú lại giàu tính họa, tính nhạc. Thứ tiếng mà người nước ngoài cho là ríu rít như chim, bổng trầm như hát khi nghe ta nói: "Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói/ Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ/ Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa/ Óng tre ngà và mềm mại như tơ/ Tiếng tha thiết nói thường nghe như hát/ Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh/ Như gió nước không thể nào nắm bắt/ Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh./ Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy/ Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn/ Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối/ Tiếng heo may gợi nhớ những con đường".

Tiếng Việt thân thương ấy có ở khắp rộng dài đất nước. Có thể xem nó cũng là "dấu mốc" xác lập chủ quyền và chứng tích lịch sử Việt Nam. Ngôn ngữ nghe như hát ấy đã thể hiện bản lĩnh, khí phách, tâm hồn, cốt cách Việt. Ngôn ngữ ríu rít như chim hót ấy cũng làm nên một nền văn chương Việt với ngôi sao sáng nhất mang tên đại thi hào Nguyễn Du.

Từ bể khổ trần gian, ánh sáng nhân văn hửng phát bằng những câu lục bát rất Việt: "Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng" của Tố Như. Nguồn cội của lòng nhân ái phải chăng cũng là câu ca dao đầy Việt tính "Thương người như thể thương thân" này.

Chính vì thế, mà ta đồng cảm sâu sắc với Lưu Quang Vũ qua những câu thơ xuất sắc của ông: "Một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng/ Vẫn tiếng làng, tiếng nước của riêng ta/ Tiếng chẳng mất khi Loa Thành đã mất/ Nàng Mỵ Châu quỳ xuống lạy cha già./ Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng/ Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi/ Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán/ Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời…".

Lịch sử và văn học Việt Nam có rất nhiều sự kiện, tác giả nhưng Lưu Quang Vũ đã có lý khi chỉ chọn truyền thuyết về Cổ Loa thành thời An Dương Vương với bi kịch Mỵ Châu và người viết "Đoạn trường tân thanh" bất hủ Nguyễn Du. Thật điển hình và tinh tế làm sao; hình như nhà thơ đã gửi gắm nhiều tâm sự kín đáo vào hai con người nổi tiếng ấy.

Nỗi buồn của lầm lỗi trắng trong, nỗi đau nhân thế của một tài hoa bạc mệnh. Bi kịch của một người cũng là bi kịch của dân tộc trong những thời đoạn lịch sử éo le, ngặt nghèo chăng? Dân tộc chưa bao giờ thanh toán hết những bi kịch lịch sử, cơ cực của muôn kiếp chúng sinh vẫn diễn ra thì nỗi thương đời vẫn vằng vặc Nguyễn Du.

Bài thơ lại được mở thêm những vùng miền mới. Liên tưởng tiếp nối những liên tưởng vừa tạo ra độ mở về nội dung vừa cung cấp cho người đọc những thi ảnh mới, đẹp. Tiếng Việt vang lên trong mỗi nhà: "Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay"; tiếng Việt ngân bay giữa bao la mây nước, thôn mạc, núi non: "Buồm lộng sóng xô, mai về nhớ trúc" và kết dệt nên hồn dân tộc Việt trong trẻo. Tiếng Việt kết nối lòng người; xa gần, cao thấp xích lại bên nhau trong nghĩa đồng bào, bè bạn: "Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết/ Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi/ Như vị muối chung lòng biển mặn/ Như dòng sông thương mến chảy muôn đời".

Tiếng Việt là sự chuyển lưu, tiếp nối, gìn giữ, bổ sung của nhiều thế hệ, vì thế nó là tài sản vô giá của dân tộc. Trong thời đại ngày nay, khi sự giao lưu hội nhập quốc tế là xu hướng không thể cưỡng được, người ta có thể sử dụng những ngôn ngữ khác trong giao tiếp, công việc nhưng tiếng Việt vẫn phải là phần bảo lưu quan trọng, thiêng liêng trong mỗi chúng ta: "Ai thuở trước nói những lời thứ nhất/ Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu/ Điều anh nói hôm nay, chiều sẽ tắt/ Ai người sau nói tiếp những lời yêu?".

Và, tiếng Việt mãi là công cụ gắn kết những con người Việt lại với nhau trên tinh thần hòa hợp dân tộc chân thành thực sự. Lưu Quang Vũ từ mấy chục năm về trước đã tâm huyết nói lên điều đó, như một nhận thức, một suy ngẫm, một tình yêu đúng đắn: "Ai phiêu bạt nơi chân trời góc bể/ Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya/ Ai ở phía bên kia cầm súng khác/ Cùng tôi trong tiếng Việt quay về".

Như muôn người yêu nước thương dân khác, Lưu Quang Vũ cũng mắc nợ tiếng Việt suốt đời. Không chỉ mắc nợ với ngôn ngữ mẹ đẻ mà đây còn là mắc nợ với những ân tình của đất nước, của nhân dân đã dành cho mình. Món nợ này vừa vô hình vừa cụ thể, đau đáu giữa lòng ta từ những yêu thương và khát vọng đẹp đẽ  cho Tổ quốc thân yêu:

Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá, môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi, tiếng Việt ân tình.

Chẳng còn gì đúng hơn thế nữa, xưa kia, hôm nay và mai sau, trên dòng thời gian thăm thẳm, giữa hành tinh xanh này, Tiếng Việt mãi mãi "Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta"…

Nguyễn Hữu Quý
.
.