Từ lễ cưới giữa cung đình đến cái chết của Hoàng hậu Nam Phương

Thứ Sáu, 23/03/2007, 15:30
Cách mạng Tháng Tám thành công, Bảo Đại thoái vị, bà Nam Phương cũng sang Pháp sinh sống. Tuy giàu có nhưng bà sống thiếu hạnh phúc và chết trong cô đơn nơi đất khách ở tuổi 49.

Vĩnh Thụy (SN 1913) khi mới 8 tuổi đã trở thành Đông cung Hoàng thái tử, được Pasquier (nhiều năm làm Khâm sứ Trung Kỳ và Toàn quyền Đông Dương) đưa về Paris, giao cho Charles nuôi dưỡng. Sau 11 năm du học bên Pháp, Vĩnh Thụy trở lại quê nhà (trên chuyến tàu thủy chở khách bình thường) lên ngôi Hoàng đế Bảo Đại, ở tuổi 19. Vợ chồng Charles cũng về theo.

Không ngờ trên chuyến tàu này, có một nữ khách người Việt, cô Mariette Jeanne Nguyễn Hữu Thị Lan, có sắc đẹp tuyệt trần, năm ấy vừa tròn 18 tuổi. Cô sinh năm 1914 tại Sài Gòn, con ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bính, cháu ngoại ông huyện Sĩ ở Nam Kỳ, một trong 4 người giàu nhất nước Việt Nam những năm đầu của thế kỷ XX, một gia đình theo đạo Thiên Chúa, có quốc tịch Pháp.

Năm 14 tuổi, cô được gia đình gửi sang Pháp, học trường dòng Couvent des Oiseaux ở Paris, cũng trở về nước chuyến này khi vừa học xong. Và lần đầu cô trông thấy Vĩnh Thụy ở phòng ăn trên tàu.

Năm sau lại diễn ra cuộc hội ngộ có vẻ tình cờ nhưng mang tính định mệnh giữa Vĩnh Thụy và cô Lan, nếu không muốn nói thẳng ra đây là một sự đạo diễn từ đầu đến cuối của người Pháp. Lúc ấy, họ bố trí cho Vĩnh Thụy và Toàn quyền Pasquier đến nghỉ mát ở núi Lâm Viên Đà Lạt. Và Darles, đốc lý, được giao nhiệm vụ tổ chức một buổi tiệc trà với lý do họp mặt giữa người Pháp và một số thân hào nổi tiếng ở miền Nam đang làm ăn tại TP cao nguyên này.

Hai mẹ con cô Lan và anh ruột bà Nguyễn Hữu Hào, ông Denis Lê Phát An, từ Sài Gòn lên đây nghỉ mát từ vài hôm trước, cũng được gửi thiếp mời tới dự tiệc trà. Nể lời cậu, cô Lan đành phải đi dự nhưng không trang điểm, chỉ mặc cái áo dài bằng lụa đen mua bên Pháp. Trong buổi tiệc ấy, khi ông Darles đưa "ông cậu và cô cháu gái" đến giới thiệu, Hoàng đế đã bị chinh phục, rung cảm ngay từ phút đầu, nhìn cô không chớp mắt.

Sau bữa tiệc đó, Vĩnh Thụy trở lại Huế bẩm với bà Hoàng Thái hậu từ cung Hoàng Thị Cúc về chuyện gặp cô Lan và những dự định sẽ làm. Nghe chuyện, bà tỏ ra lo lắng, nét mặt u buồn, bởi cô Lan đi đạo, lớn lên trong lối sống của châu Âu, không phải sống trong khuôn phép lễ giáo Việt Nam. Lại còn chuyện giáo dục con cái về tôn giáo, khi chúng lớn lên, được phong Hoàng Thái tử thì làm sao cử hành được việc thờ cúng liệt thánh hay lễ tế đàn Nam Giao? Không phải chỉ trong hoàng tộc và đình thần, cả trong dân chúng đều lo lắng, bàn tán xôn xao.

Vĩnh Thụy vẫn bất chấp, vượt qua mọi cửa ải. Hôn lễ được cử hành trọng thể vào ngày 20/3/1934, trước sự hiện diện của đình thần và đại diện nước Pháp, tại điện Cần Chánh.

Triều đình đứng thành hàng dọc theo tấm thảm hai màu vàng, đỏ dành riêng cho hoàng đế. Lần đầu tiên trong lịch sử nhà Nguyễn, có một phụ nữ xuất hiện giữa triều đình.

Bà Nam Phương - tên trị vì do Bảo Đại đặt, có nghĩa “Người con gái phương Nam” - mặc áo thụng, chân đi hài mũi cong, đầu đội vương miện đính 9 con phượng bằng vàng thật và nhiều ngọc châu óng ánh. Bà đi đến giữa tấm thảm, cả triều đình vái chào.

Với một vẻ đẹp lộng lẫy, bà đi thẳng vào phòng lớn giữa lúc nhà vua đang ngồi trên ngai thấp ở đó. Hôn lễ ngắn gọn, đơn giản. Hoàng đế và hoàng hậu sánh vai bước đi trong tiếng nhạc mừng qua Tử Cấm Thành vào điện Kiến Trung, nơi ở và làm việc chính.

Sau này, họ có với nhau 5 người con: 2 hoàng tử và 3 công chúa.

Cách mạng Tháng Tám thành công, Bảo Đại thoái vị cùng gia đình rời khỏi Đại Nội, tới ở cung An Định, bên bờ sông An Cựu. Thời gian sau, trong bối cảnh nhà Nguyễn đã suy vong, bà Nam Phương sang Pháp sống những năm tháng cuối đời.

Cựu hoàng Bảo Đại.

Bà chọn Chabrignac, một làng quê trải dài trên vùng đồi có những mái nhà xám. Trên khu đất rộng 160 mẫu, bà xây một biệt thự bằng đá cẩm thạch ở giữa đồi, nuôi một đàn bò sữa ngót trăm con. Giữa đất khách, bà sống ẩn dật trong yên tĩnh với một tài sản chẳng ai bằng. Ngoài 2 chung cư lớn ở Neuilly và đại lộ Opéra (Paris), bà còn là chủ sở hữu nhiều nhà đất ở các nước Maroc, Congo, cùng nhiều ngọc ngà, châu báu.

Dân làng Chabrignac kể rằng, bà Nam Phương giàu có nhưng sống thiếu hạnh phúc. Bao nhiêu năm chỉ thấy cựu hoàng Bảo Đại về thăm Hoàng hậu có mấy lần, lần được nhớ nhất là vào dịp lễ cưới của Phương Liên kết hôn với chàng trai Bordelais.

Buồn nản vì tình cảm của mình, bà Nam Phương chỉ sống âm thầm trong ngôi nhà vắng vẻ. Họa hoằn bà mới về thăm Paris vài ngày. Có lẽ vui nhất là dịp nghỉ hè các con bà mới có dịp về thăm bà.

Rồi cái ngày tận số ập đến. Sau chuyến đi chơi về, bà thấy đau cổ. Bác sĩ tới thăm bệnh, nói bà bị viêm họng nhẹ. Không ngờ sau đó, bà bị khó thở.

Ông quản gia và mấy cô giúp việc vội chạy đi tìm bác sĩ khác ở làng bên, cách mươi cây số. Nhưng bà càng khó thở hơn và trái tim bà đã ngừng đập ở tuổi 49. Đó là ngày 14/9/1963.

Trong giờ phút lâm chung, ngoài những người giúp việc, bên cạnh bà không có một người thân nào. Một cái chết cô đơn ở xứ người.

Đến viếng bà, những người có mối quan hệ được xem là gần gũi có thể kể: Công chúa Như Lý, con gái Vua Hàm Nghi, và vài viên chức thuở xưa làm việc với cựu hoàng Bảo Đại, ông tỉnh trưởng Pháp cùng mấy vị dân biểu. Báo chí Việt Nam tới hàng chục năm sau vẫn không biết bà hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn mất từ bao giờ.

Đám tang bà hoàng hậu thưa thớt, vắng vẻ, không tiếng khóc than, không lời ai điếu. Nấm mộ đơn sơ đặt trong nghĩa trang của nhà thờ ngay tại Chabrignac, kém cả những ngôi mộ xây đủ hình khối ở ngay bên cạnh.

Người tới thăm viếng có thể nhìn tấm bia, mặt trước ghi mấy dòng tiếng Pháp: “Ici, repose l'impéreatrice d'Annam née Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan”. (Đây là nơi an nghỉ của bà Hoàng hậu Việt Nam tên là Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan). Mặt sau tấm bia khắc dòng chữ Hán: “Đại Nam Nam Phương Hoàng hậu chi mộ” (mộ phần bà Hoàng hậu Nam Phương của nước Đại Nam)

Thọ Cao
.
.