Tản mạn chuyện đặt tên tranh và ký tên của họa sĩ

Thứ Sáu, 08/08/2014, 08:00
Đặt tên cho "đứa con tinh thần" với các loại hình nghệ thuật khác nhiều khi là cả một nghệ thuật, được các tác giả dành thời gian chăm chút. Riêng với mỹ thuật, chuyện này không phải lúc nào cũng thế. Và khi đặt ra câu hỏi "liệu cái tên tranh có quan trọng không?", chúng tôi đã nhận về hai xu hướng quan niệm rõ rệt trong chuyện này.

Tên tranh là cái phải nghĩ trước tiên!

Theo họa sĩ Lê Trí Dũng, Ủy viên Hội đồng nghệ thuật Hội Mỹ thuật Việt Nam thì  trước khi đặt bút vẽ, họa sĩ phải có chủ đích: Vẽ cái gì? Vẽ để làm gì? Anh cho rằng tên tranh (cái chủ đích) bao giờ cũng phải đặt trước tiên. Vẽ xe tăng vượt qua bom đạn Mỹ thì là "Vượt trọng điểm", bức về tình quân dân sau trận chiến thì tên là "Phía sau trận đánh", loạt tranh con giáp thì "Ngựa 1", "Ngựa 2"…, "Hổ 1", "Hổ 2"… Tranh vẽ lúc sầu vô thức, vẽ cho quên đời thì đặt tên là "Vô đề 1", "Vô đề 2"… Anh cũng nói thêm: "Vì hội họa có ngôn ngữ riêng của nó nên việc mượn ngôn ngữ văn chương vào nhiều khi rất kệch cỡm".

Họa sĩ Xuân Đông tán đồng ý kiến này. Vẽ tranh là xuất phát từ ý tưởng bố cục tranh của người họa sĩ. Trước đối tượng và cảm xúc cá nhân, họa sĩ phải cùng lúc đặt tên tranh rồi vẽ tranh sao cho đẹp để nói rõ cái tên của tranh họ đã đặt ra. Trong quá trình vẽ tranh, họa sĩ vẫn có thể điều chỉnh chữ nghĩa của tên tranh sao cho rõ, gọn, chính xác và thống nhất với tranh.

Họa sĩ Hồ Minh Quân thì xem việc đặt tên tranh cũng như đặt tên một tác phẩm văn học. Tên bức tranh phải gợi được ý đồ tư tưởng của họa sĩ, có tính biểu cảm sâu lắng, có chất thơ. Một người bạn thân vốn là tiến sĩ ngôn ngữ học đã giúp anh đặt tên cho các tác phẩm như "Âm vang đại ngàn", "Niềm vui từ đất", "Quà tặng từ biển", "Thời khắc quyết định"... v.v…

Tên tranh chỉ là… tên tranh

Nhiều họa sĩ lại theo xu hướng không xem trọng việc đặt tên tranh, phần nào xuất phát từ quan niệm khu biệt về đặc trưng của nguyên lý sáng tạo và ngôn ngữ hội họa. Mỹ thuật sử dụng chất liệu của màu sắc, bút pháp, bố cục… Cái tên, nếu cầu kỳ, nhiều khi lại hạn chế, hoặc đánh đố người thưởng thức. Bản thân tác phẩm, chứ không phải là cái tên sẽ quyến rũ thị giác và chinh phục người thưởng ngoạn.

Họa sỹ Trần Luân Tín cũng cho rằng, vẽ như thế nào quan trọng hơn vẽ cái gì. Nói thế không có nghĩa ông xem trọng chủ nghĩa hình thức. Nếu họa sĩ không chinh phục được người xem bằng hình thức - tức vẻ đẹp trực quan của bức tranh - thì nội dung của bức tranh sẽ là số không, rất khó để người xem "thấm" được chút tư tưởng cao siêu nào (nếu có), ngay cả khi nó đã được "gợi ý" rõ ràng trong tên gọi.

Tác giả Quang Việt trong một bài báo có trích lại quan niệm của nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân năm 1983. Ông Vân đã đưa ra hai "khái niệm": "Đời sống vật thể" và "đời sống hình tượng" của tác phẩm. Ông đã đi đến kết luận: "Khi tiếp xúc với một tác phẩm, riêng tôi, tôi vẫn đinh ninh rằng, công việc của mình không phải là để nối liền sự vật trên tác phẩm vào một cái tên gọi… mà là để nối liền một quan niệm thẩm mĩ vào một hình tượng nghệ thuật."

“Tan ca mời chị em đi thi thợ giỏi” - Tranh của Nguyễn Đỗ Cung.

Để minh họa, về bức tranh "Em Thúy" của Trần Văn Cẩn, Thái Bá Vân viết: "Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả… Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh là "tuổi thơ" hay "học sinh tiên tiến"... v.v.. thì tưởng rằng giá trị thẩm mỹ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một. Dấn lên tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là hiện thực hình tượng".

Đi theo lối này, nhiều họa sĩ cho rằng, một cái tên giản dị, không đa nghĩa sẽ dành nhiều "khoảng trống" hơn cho việc thưởng ngoạn với người xem. Từ đó sẽ thấy, kiểu đặt tên "vẽ gì gọi tên thế" hóa ra lại có nội hàm cảm xúc và tư tưởng phong phú hơn nhiều. Xét đến cùng, chuyện "vẽ gì" đâu quá quan trọng, vấn đề vẫn phải là "vẽ như thế nào" thôi.

Họa sĩ Bùi Xuân Phái thường đặt tên tranh theo lối hết sức giản dị, gần như "vẽ gì nói đó" như: "Phố Hàng Bạc", "Phố Hàng Tre", "Phố Hàng Giấy", "Phố Hàng Nón"…. Không cầu kỳ, không chút trừu tượng, khó hiểu.

Các họa sĩ lớn lớp trước dường như đều thích sự đơn giản, dung dị trong đặt tên. Có thể kể: "Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ" của Nguyễn Sáng, "Nhớ một chiều Tây Bắc" của Phan Kế An, "Bình minh trên nông trang" của Nguyễn Đức Nùng, "Bình văn" của Lê Huy Miến, "Ngày mùa" của Dương Bích Liên, "Em Thúy", "Nữ dân quân miền biển" của Trần Văn Cẩn, "Chùa Thầy" của Hoàng Tích Trù, "Một buổi cày" của Lưu Công Nhân,…

Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung đặt tên tranh vô cùng "nôm na". Ông có tác phẩm "Tan ca mời chị em đi thi thợ giỏi" dung dị như câu nói ngày thường.

Sau này, có những nghệ sĩ mà trong tên tác phẩm của họ thường xuyên có những chữ quen, thể hiện dòng mạch ý tưởng xuyên suốt quá trình tìm tòi nghệ thuật. Với nhà điêu khắc Phan Gia Hương, người ta hay thấy chữ "cõi". Cũng như thế là chữ "mầm" trong các tác phẩm của nhà điêu khắc Bùi Hải Sơn….

Nhìn vào các nghệ sĩ trẻ hôm nay, thấy rõ lối sính chữ, cầu kỳ và mong muốn diễn đạt rõ ràng ngụ ý của họ thông qua cách đặt tên tác phẩm. Tên tranh thường là các khái niệm, ý niệm như "Viễn du", "Hừng trăng", "Lời muốn nói", "Giai điệu hạnh phúc", "Ngắm đời",…

Thường thì tác phẩm hội họa sẽ "chết danh" sau khi đã rất nổi tiếng. Kiểu như các bức "Hoa diên vỹ", "Hoa hướng dương" của danh họa Vincent Van Gogh, bức "Mona Lisa", "Bữa tiệc cuối cùng" của danh họa người Ý Leonardo da Vinci, bức "Em Thúy" của danh họa Trần Văn Cẩn, bức "Chơi ô ăn quan" của danh họa Nguyễn Phan Chánh… Còn nhìn chung, việc trùng tên tranh, việc chính họa sĩ cũng không nhớ được tên tác phẩm của mình thì rất phổ biến.

Ký tên trên tranh

Với họa sĩ Lê Trí Dũng, việc ký tên trên tranh vốn là một việc hệ trọng, chỉ sau việc vẽ. Nhưng nhiều họa sĩ rất chểnh mảng trong việc này, phần vì chưa thấy ý nghĩa của nó. Thời xa xưa, họa sĩ Á Đông vẽ xong thường đóng triện, có khi 4,5 cái triện như là một lối trang sức cho bức họa của mình.

Thời hiện đại, có chữ La tinh, ít người dùng triện thì chữ ký được họa sĩ dày công nghiên cứu. Một số viết tên theo lối chân phương, lâu dần thành ra một lối vẽ chữ, như họa sĩ Trần Lưu Hậu.

Chữ ký trên tranh phải làm sao ăn nhập với tranh, lại lột tả đúng cái chất của người vẽ, nó là dung mạo, bản sắc của người họa sĩ… Nguyễn Tư Nghiêm thì ký là NGE, Bùi Xuân Phái chữ ký nghiêng ngả y như những phố mà ông vẽ; Nguyễn Sáng thì ký ngang tàng, thẳng thắn, bộc trực như con người ông.

Chữ ký của họa sĩ trên tranh trước hết là ý thức khẳng định cá nhân lên tác phẩm mang dấu ấn sáng tạo riêng của người nghệ sĩ. Chữ ký cũng có thể là một phần không thể thiếu trong bố cục tổng thể của bức tranh. Có những bức tranh trở nên khác hẳn sau khi điểm thêm "họa tiết" đặc biệt là chữ ký và logo cá nhân của họa sĩ.

Thường thì tranh vẽ bằng chất liệu nào, họa sĩ ký luôn bằng chất liệu ấy. Chuyện quên ký tên sẽ gặp đôi chút phiền hà với chất liệu sơn mài. Không có bất cứ quy định chung nào về vị trí chữ ký. Tuy nhiên, đa phần các họa sĩ chọn góc dưới bên tay phải để đặt chữ ký và biểu tượng cá nhân. Rất ít họa sĩ thay đổi chữ ký trong cả cuộc đời sáng tạo.

Tuy nhiên, cũng có trường hợp hy hữu như họa sĩ sơn mài Lê Văn Thìn, lý do đổi chữ ký của anh có vẻ hơi duy tâm vì thấy ký kiểu như sau này thì tranh… dễ bán hơn

Dương Kim Thoa
.
.