Những trang viết đổi bằng máu trên đất lửa

Thứ Ba, 08/08/2017, 08:02
Nhà thơ Thanh Quế là một trong những nhân chứng lịch sử từng gắn bó với chiến trường Khu 5, đặc biệt là mảnh đất Quảng Nam thời chống Mỹ. Trong câu chuyện mới đây với chúng tôi tại Đà Nẵng, con người hồn hậu này ít nói về mình mà chủ yếu nhớ về những đồng đội, đồng nghiệp cùng vào sinh ra tử dưới mưa bom bão đạn, nhất là những cây bút để có được những trang viết chân thực sống động đã phải đánh đổi cả sinh mạng của mình.

Thanh Quế họ Phan, là người quê Phú Yên, tập kết ra Bắc học trường Học sinh miền Nam, rồi nghe theo lời khuyên của nhà thơ, thầy giáo dạy sử Ca Lê Hiến (tức nhà thơ Lê Anh Xuân) mà thi đậu, học rồi tốt nghiệp Khoa Sử Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Nối gót Ca Lê Hiến và những bậc đàn anh đàn chị đi trước, Thanh Quế cũng vào chiến trường vào mùa đông năm 1969, làm báo viết văn ở Hội Văn nghệ Giải phóng Khu 5 đóng căn cứ trên vùng núi thuộc tỉnh Quảng Nam. Tại chiến trường này, Thanh Quế có dịp hội ngộ, công tác chung với nhiều văn nghệ sĩ như Phan Huỳnh Điểu, Thu Bồn, Phan Tứ, Chu Cẩm Phong, Nguyễn Mỹ, Nguyễn Chí Trung, Vương Linh, Trần Vũ Mai, Liên Nam, Văn Cận, Đặng Minh Phương, Đinh Thành Lê,…

Điều tiếc nuối nhất của nhà thơ Thanh Quế là khi ông vào chiến trường không gặp được nhà văn Dương Thị Xuân Quý vì chị đã hy sinh hơn nửa năm trước trong một trận càn của giặc tại Xuyên Tân, nay thuộc tỉnh Quảng Nam. Vốn sinh trưởng trong một gia tộc trí thức nổi tiếng ở Hà Nội, Dương Thị Xuân Quý tốt nghiệp trung cấp ngành Mỏ và Đại học Báo chí, về làm ở Báo Phụ Nữ Việt Nam, rồi xung phong vào chiến trường cùng chồng khi chị mới sinh con gái đầu lòng được 16 tháng tuổi, gửi lại cho bà ngoại nuôi dưỡng.

Thời kỳ công tác ở cơ quan Hội Văn nghệ Giải phóng Khu 5, nhà văn Dương Thị Xuân Quý vừa tham gia những công việc hằng ngày như cắt tranh làm nhà, sản xuất, gùi cõng lương thực lại vừa đề ra kế hoạch sáng tác, đêm đêm bên ngọn đèn dầu chị ngồi cặm cụi viết. Thời gian sau chiến dịch Tổng tấn công Mậu Thân 1968, dù tình hình rất căng thẳng khi địch liên tục càn quét để tạo nên những vùng trắng nhưng chị vẫn xuống tận cơ sở để bám trụ cùng bà con để lấy tư liệu thực tế mà viết ký sự và truyện ngắn. Từ lời kể của một cán bộ tuyên huấn huyện Duy Xuyên, nhà thơ Thanh Quế đã thuật lại trong bài viết "Người phụ nữ gầy yếu và mạnh mẽ" rất xúc động về nhà văn Dương Thị Xuân Quý:

"Ngay trước đêm bị địch càn, chị Quý còn ngồi làm việc tới hơn mười một giờ khuya. Chị bảo chị cố gắng hoàn thành cái bút ký về xã Xuyên Hoà, xã anh hùng nổi tiếng ở Quảng Đà. Nhưng chị đã ngã xuống không kịp hoàn chỉnh cái bút ký ấy. Nó cũng như những cái ký và truyện đã hoàn thành theo chị ra đi, không còn đến với chúng ta nữa. Chị hy sinh tại vùng cát Xuyên Tân ngày 8-3-1969. Và tôi biết không có gì lại dẫn dắt những người còn sống chúng ta tới gần bản chất của sự sống bằng cái chết của những người như chị. Chị dạy cho chúng ta sống đúng đắn hơn, dũng cảm hơn".

Nhà văn Chu Cẩm Phong, nhà văn Dương Thị Xuân Quý và nhà thơ Nguyễn Mỹ.

Đối với nhà văn Chu Cẩm Phong thì nhà thơ Thanh Quế may mắn được gặp ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội lần đầu từ tháng 9-1963, rồi sau này lại hội ngộ ở chiến trường đất Quảng. Lúc Thanh Quế mới vào học năm thứ nhất khoa Sử thì Chu Cẩm Phong đã học khoa Văn năm thứ 4, lại được tuyển chọn đi du học nước ngoài nhưng anh từ chối và xung phong về Nam theo đoàn của Thông tấn xã từ cuối năm 1964.

Chu Cẩm Phong tên khai sinh là Trần Tiến, quê ở Hội An, Quảng Nam nên khi về quê công tác, anh cố tìm cách gặp mẹ nhưng không thành. Mẹ của anh là cơ sở nuôi giấu cách mạng trong phố cổ, hay đi liên lạc nơi này nơi khác, nên hai mẹ con như đuổi bắt nhau mà không bao giờ giáp mặt. Giữa hoàn cảnh cách trở ấy, hình ảnh người mẹ dịu dàng cứ hiện lên trên trang văn của anh qua những truyện ký "Mẹ con chị Hiền", "Bà mẹ Sáu",…

Nhà thơ Thanh Quế cho hay: "Chu Cẩm Phong ghi chép rất kỹ lưỡng. Trong sổ tay, anh tả từng khuôn mặt người, từng câu nói, từng từ lạ, những từ mang bản sắc vùng đất, cùng với những vật dụng mà bà con thường dùng ở từng vùng… Những gì anh viết ra chỉ là một phần rất nhỏ so với những điều anh thu nhận được. Anh hiểu thấu đáo nhiều việc xảy ra ở đồng bằng, ở miền núi Khu 5". Đối với Thanh Quế và một số cây bút cùng cơ quan, Chu Cẩm Phong là bậc đàn anh về kinh nghiệm sống và chữ nghĩa, mà khi viết bị bí chi tiết họ hay hỏi "xin" anh. "Tạng của anh là tạng của một nhà tiểu thuyết lớn. Nhưng… tôi cứ nghĩ về anh như nghĩ đến Trần Đăng".

Vào cuối tháng 3-1971, Chu Cẩm Phong đi công tác ở Quảng Đà, gửi lại 3 cuốn nhật ký cho Thanh Quế giữ giùm, đựng trong một thùng đạn đại liên không thấm nước. Anh chỉ mang theo bên mình một cuốn nhật ký đang dùng. Và cuốn nhật ký cuối cùng này đã biến mất khi nhà văn Chu Cẩm Phong anh dũng hy sinh ngày 1-5-1971 cùng 3 đồng đội trong một căn hầm bí mật bị địch phát hiện bao vây tấn công liên tục.

Nhưng rồi sau ngày đất nước thống nhất, một thầy giáo vốn là sĩ quan quân lực Sài Gòn đã tìm đến trụ sở Hội Văn nghệ Giải phóng miền Trung trao lại cuốn nhật ký này tận tay một nhà thơ bạn thân của anh. Và gần 30 năm sau, cuốn nhật ký lưu lạc ấy hợp cùng 3 cuốn nhật ký vốn do nhà thơ Thanh Quế cùng đồng đội, gia đình lưu giữ in thành tác phẩm "Nhật ký chiến tranh" nổi tiếng của nhà văn Chu Cẩm Phong. Rồi mười năm sau, Chu Cẩm Phong được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, trở thành nhà văn Việt Nam đầu tiên được phong tặng danh hiệu này.

Cây bút thứ ba hy sinh trên chiến trường đất Quảng mà nhà thơ Thanh Quế luôn nhớ tới với tất cả nỗi tiếc thương, day dứt là nhà thơ Nguyễn Mỹ, người mà theo ông đã gặp nhiều gian truân cả lúc sống lẫn lúc đã ngã xuống. Nhà thơ Nguyễn Mỹ là em ruột của nhạc sĩ Nhật Lai, đồng hương cùng huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên với nhà thơ Thanh Quế. Với bài thơ "Cuộc chia ly màu đỏ" nổi tiếng in trên Báo Văn Nghệ  năm 1965, Nguyễn Mỹ sớm trở thành gương mặt thơ sáng giá.

Bia kỷ niệm nơi nhà văn Dương Thị Xuân Quý hy sinh.

Cuối năm 1968, Nguyễn Mỹ rời Nhà xuất bản Phổ Thông mà mình đang công tác, xung phong trở về miền Nam chiến đấu, được các bạn thơ tiễn bằng bữa bia hơi gần vườn hoa có những cô gái mặc áo đỏ ngang qua "Như không hề có cuộc chia ly". Tròn một năm sau, Thanh Quế cũng rời Hà Nội vào đất Quảng. Vừa đến nơi, hay tin Nguyễn Mỹ không còn công tác ở Hội văn nghệ mà đang sản xuất, làm ca dao hò vè tuyên truyền ở tận Trà My. Ngay hôm sau Thanh Quế đã vượt núi băng rừng hơn ngày ròng đi cõng sắn và thăm người anh đồng hương. Không chỉ có tài năng thi ca, diễn xuất mà Nguyễn Mỹ còn có tài đánh cá, săn bắn nên chỉ hơn nửa giờ sau khi gặp nhau, ông đã săn được một con cheo mang về đãi bạn.

Một lần trên đường đi công tác, nhà thơ Nguyễn Mỹ ghé Hội Văn nghệ Giải phóng, được đãi bữa bánh sắn. Trong câu chuyện văn chương, ông rút trong gùi ra một xấp giấy bọc ni lông, cho biết đã sáng tác được chín bài thơ toàn có màu như "Cánh đồng vàng", "Hoa ê-pan trắng", "Hoa tím",… để hợp cùng "Cuộc chia ly màu đỏ" thành bộ tranh "có màu". Nghe vậy, nhà văn Chu Cẩm Phong cười thốt lên: "Thế thì ông là nhà thơ của những sắc màu rồi"! Họ xin thơ để in trên Tạp chí Văn Nghệ Giải phóng, nhưng Nguyễn Mỹ nói để sửa chữa cho kỹ rồi gửi, nhưng cuối cùng những bài thơ sắc màu ấy đã biến mất theo nhà thơ khi ông hy sinh trong một trận càn của địch ở căn cứ Nước Ta, huyện Trà My sáng ngày 16-5-1971.

Nhà thơ Thanh Quế cho biết, sau khi nhà thơ Nguyễn Mỹ bị bắn: "Địch lục soát thấy anh có một chứng minh thư cũ ghi tên là Nguyễn Mỹ và trong gùi có một tờ báo Cờ Giải Phóng của Khu 5 đăng một bài ca dao chống chiến tranh tâm lý, ký tên anh, nên chúng rêu rao là đã giết được một nhà báo".

Nếu như ở Sài Gòn và Nam Bộ có Nguyễn Thi, Lê Anh Xuân, Hồng Tân,… là những nhà báo, nhà văn đã anh dũng ngã xuống trên chiến trường chống Mỹ, thì ở đất Quảng của Khu 5 có Dương Thị Xuân Quý, Chu Cẩm Phong, Nguyễn Mỹ mà sự hy sinh của họ luôn là nỗi thương tiếc khôn nguôi trong lòng người thân, đồng đội, trong đó có Thanh Quế. Cùng với nhiều người từng sống, chiến đấu và am hiểu sự hy sinh của các nhà văn ở vùng đất lửa xứ Quảng, nhà thơ Thanh Quế cho rằng ngoài nhà văn Chu Cẩm Phong thì nhà văn Dương Thị Xuân Quý và nhà thơ Nguyễn Mỹ cũng xứng đáng được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Phan Huỳnh
.
.