Kỷ niệm 70 năm Đề cương văn hoá Việt Nam (1943-2013)

Những bài học còn nguyên giá trị

Thứ Ba, 22/10/2013, 08:00

Trong bài nói chuyện tại Đại hội thành lập Hội Điện ảnh Việt Nam (tháng 1/1969), nhân nhắc tới cái kết có phần bi lụy của phim "Chim vành khuyên", đồng chí Trường Chinh đã đề ra một giải pháp sửa đoạn kết, nhưng ông khiêm tốn: "Nếu tôi là tác giả truyện phim, thì tôi làm..." và "đối với ý kiến của tôi, các đồng chí có thể đồng ý hay không đồng ý...". Theo quan điểm của ông: "Nếu chỉ căn cứ vào ý kiến riêng của mình thôi, thì dù nhà phê bình giỏi mấy cũng không phê bình tốt được"...

Ngày 18/9 vừa qua, tại Hà Nội, Ban Tuyên giáo Trung ương đã phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch tổ chức hội thảo khoa học "70 năm Đề cương văn hóa Việt Nam" (1943-2013). Tại cuộc hội thảo, đồng chí Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương đã khẳng định: "Đề cương văn hóa Việt Nam do cố Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo, là văn kiện có giá trị vô cùng to lớn, có ý nghĩa lịch sử sâu sắc của Đảng ta, được coi là tuyên ngôn của Đảng về một nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng mà chúng ta xây dựng. 70 năm đã qua, dân tộc ta, Đảng ta đã trải qua những chặng đường gian khổ, hào hùng, làm nên những thắng lợi vẻ vang. Bối cảnh tình hình và điều kiện cụ thể đã có nhiều đổi thay, nhưng những nội dung cốt lõi của Đề cương văn hóa Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị".

Nhà báo Hữu Thọ phát biểu tại Hội thảo khoa học "70 năm Đề cương văn hóa Việt Nam" (1943-2013) do Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch tổ chức ngày 18/9 vừa qua.

Như vậy, đã chẵn bảy thập niên trôi qua kể từ ngày Đề cương văn hóa Việt Nam ra đời. Còn nhớ, năm 2007, nhân kỷ niệm 70 năm ngày sinh cố Tổng Bí thư Trường Chinh, một tờ báo có đặt tôi viết bài "Đọc sách" về cuốn "Về văn hóa văn nghệ" của đồng chí Trường Chinh do NXB Văn học ấn hành trước đó một năm. Đọc cuốn sách, tôi tìm vào bản Đề cương văn hóa Việt Nam trước nhất, vì đối với giới văn nghệ, đây có lẽ là cuốn sách của đồng chí Trường Chinh được các nhà văn nhắc tới nhiều nhất (tôi từng đọc thấy trong hồi ký của các nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Nguyên Hồng việc họ sôi nổi bàn luận về bản đề cương này ra sao). Tuy nhiên, tôi đã rất ngạc nhiên khi thấy trong mục lục của cuốn sách dày tới gần 1.000 trang nói trên, không có bài nào có tên là Đề cương văn hóa Việt Nam (trong khi ở phần tiểu sử đồng chí Trường Chinh in đầu sách thấy có nói bản Đề cương văn hóa Việt Nam là do đồng chí soạn thảo). Tôi đem thắc mắc này trao đổi với ông Nguyễn Cừ, bấy giờ là Giám đốc NXB Văn học thì được ông Nguyễn Cừ giải thích: "Bài này, mặc dù trong hồi ký của một số nhà hoạt động văn hóa, xã hội đều thấy nói người chấp bút là đồng chí Trường Chinh, nhưng về danh chính ngôn thuận thì thuộc văn kiện của Đảng. Tuy nhiên, ở phần đầu sách, đọc bài "Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam lúc này", ta có thể thấy nội dung cơ bản là giống với bản "Đề cương văn hóa" nói trên".

Có thể nói, một thời gian dài, đặc biệt là trong những năm chiến tranh, khi suy xét một tác phẩm, các nhà lý luận, phê bình văn học của ta còn nặng về "lý", bởi thế mà họ hay có những bắt bẻ khiến giới sáng tác không thực "tâm phục khẩu phục" (như nhà văn Nguyễn Tuân có lần than trách là họ vào hàng phở lại đòi ăn… cơm), buộc những người này phải gỡ gạc rất vất vả, thậm chí phải kêu cầu các đồng chí lãnh đạo cấp cao có ý kiến bênh vực mới êm chuyện. Đọc những bài viết về văn hóa văn nghệ của đồng chí Trường Chinh, điều tôi nhận thấy trước nhất ở ông là trước một vấn đề, bao giờ ông cũng có cách nhìn nhận rạch ròi, yêu ghét phân minh. Trong mỗi nhận định của ông, ta luôn thấy sự kết hợp hài hòa giữa "tình" và "lý", có những chỗ có thể gọi là "thấu tình đạt lý".

Trong bản báo cáo "Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam" đọc tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ II, tháng 7/1948, sau khi đề cập tới việc "Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học, nghệ thuật đi đôi với phong trào "vui vẻ, trẻ trung" có tính chất trụy lạc của thanh niên, trí thức, tư sản thành thị", đồng chí Trường Chinh không quên ghi nhận những đóng góp nhất định của nhóm Tự lực văn đoàn: "Dù sao, hoạt động của nhóm Tự lực văn đoàn cùng đã góp phần đẩy mạnh phong trào văn nghệ nước ta tiến lên một bước ngắn". Có thể nói, những ý kiến trên đã định hướng cho các nhà phê bình của ta sau này khi nhận định, đánh giá về một số nhà văn, nhà thơ giai đoạn tiền chiến mỗi dịp tác phẩm của họ được tái sử dụng.

Trong bản báo cáo được trình bày tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II (24/2/1957), sau khi nêu lên một số "căn bệnh" mà anh em văn nghệ sĩ mắc phải sau ngày hòa bình lập lại trên miền Bắc, đồng chí Trường Chinh cũng không quên chỉ ra một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nói trên: "Về lãnh đạo sáng tác, đã có những quan điểm giản đơn, thiển cận về vấn đề văn nghệ phục vụ chính trị, dẫn tới chỗ coi nhẹ trách nhiệm cá nhân, ít khuyến khích sự suy nghĩ, tìm tòi của từng người...". Có thể nói, trong thời điểm nhạy cảm, có nhiều vụ việc nổi cộm trong giới văn nghệ, bản báo cáo này đã cho thấy sự nghiêm khắc trong việc nhận chân vấn đề của đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng.

Cũng trong bản báo cáo nói trên, đồng chí Trường Chinh đã vận dụng câu nói của Lênin để bảo vệ tính độc lập suy nghĩ của nhà văn. Theo quan điểm của ông: "Riêng trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật không thể lấy đa số thống trị thiểu số".

Trong bài nói chuyện tại Đại hội thành lập Hội Điện ảnh Việt Nam (tháng 1/1969), nhân nhắc tới cái kết có phần bi lụy của phim "Chim vành khuyên", đồng chí Trường Chinh đã đề ra một giải pháp sửa đoạn kết, nhưng ông khiêm tốn: "Nếu tôi là tác giả truyện phim, thì tôi làm..." và "đối với ý kiến của tôi, các đồng chí có thể đồng ý hay không đồng ý...". Theo quan điểm của ông: "Nếu chỉ căn cứ vào ý kiến riêng của mình thôi, thì dù nhà phê bình giỏi mấy cũng không phê bình tốt được".

Lại nhớ, khi trao đổi với nhà lý luận, phê bình văn học, TS Phan Hồng Giang về cuốn sách của đồng chí Trường Chinh, tôi đã được ông kể cho nghe câu chuyện: Đầu năm 1975, Tạp chí Tác phẩm mới có in một bài viết dài của Phan Hồng Giang về cuốn "Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam" của đồng chí Trường Chinh, bản in lần thứ 2 (1974). Lúc ấy, trong giới văn nghệ đang xảy ra một số vụ việc khiến dư luận xì xầm. Có những vị trong giới nghiên cứu phê bình đã "mượn" cuốn sách của đồng chí Trường Chinh để "quy chụp" cho một số tác giả điều này tiếng nọ. Phần Phan Hồng Giang, ông lại có ý nghĩ khác. Ông cho rằng quan điểm của đồng chí Trường Chinh về văn hóa văn nghệ là khá cởi mở, thuận cho cá tính sáng tạo. Bởi vậy, mục đích viết bài của ông là phân tích những ý kiến của đồng chí Trường Chinh để bênh vực cho giới văn nghệ. "Tôi nhớ suốt buổi chiều hôm đó, tại Văn phòng Quốc hội ở 35 Ngô Quyền, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trường Chinh đã làm việc với tôi về bài viết này - TS Phan Hồng Giang nhớ lại - Phải nói, quan điểm của ông rất sòng phẳng. Như đoạn tôi nói về tác dụng của nghệ thuật đối với cuộc sống, tôi có nhắc tới thơ Bác Hồ, thơ Tố Hữu và thơ Sóng Hồng (bút danh của đồng chí Trường Chinh). Trong quá trình "sơ duyệt", lãnh đạo tạp chí đã đảo lại vị trí thơ Sóng Hồng lên trước vị trí thơ Tố Hữu. Nhưng khi Trường Chinh đọc lại, ông chuyển vị trí thơ ông xuống sau vị trí thơ Tố Hữu, như ở bản đầu tôi viết...".

Nhắc lại điều ấy để thấy, với văn học nghệ thuật, đồng chí Trường Chinh luôn thể hiện một thái độ thực sự cầu thị, "biết mình biết người", không lấy chức vụ để thay thế cho tài năng

Nguyễn Trường Văn
.
.