Nhạc sĩ Lê Minh và những khúc ru tình
- Nhạc sĩ Vũ Thành An: Sống là cho đi
- Nhạc sĩ Vũ Thành An lần đầu làm MV vì “Giai nhân” Ngọc Châm
- Nhạc sĩ Giao Tiên: Hào hoa một kiếp chung tình
- Nhạc sĩ Đức Minh: Lặng lẽ làm việc, lặng lẽ ra đi
1.Nhạc sĩ Lê Minh (tên thật là Lê Minh Uyển) sinh năm 1947 tại xã Đông Hoàng, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Năm 18 tuổi, chàng trai Lê Minh Uyển lên đường nhập ngũ và theo học lớp sáng tác âm nhạc do Binh chủng Thông tin tổ chức. Cũng từ đây năng khiếu nghệ thuật trong ông dần bộc lộ với niềm say mê sáng tác không ngừng nghỉ. Chính sự kiên trì, ham học hỏi của người chiến sĩ đã nuôi dưỡng tâm hồn ông, đồng thời là điều cốt yếu để ông tạo dựng sự nghiệp âm nhạc của mình.
Năm 1979, ông về công tác tại Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tây (cũ), chuyên mảng quản lý sáng tác cho đến khi nghỉ hưu. Ông thổ lộ về hưu là khoảng thời gian quý giá để ông thực hiện những dự định ấp ủ từ lâu. Và dường như càng cao tuổi, ông càng khám phá ra những nguồn cảm xúc mới để rồi trong phút lãng du, bay bổng nó đã biến thành những giai điệu mượt mà, đằm thắm. Dù không còn sung sức như thời trai trẻ nhưng cái mệt mỏi thể chất không làm ông vơi bớt nguồn năng lượng dành cho âm nhạc. Ông gửi vào đó triết lý nhân sinh và nỗi đau đau đáu về nhân tình thế thái.
Trong những sáng tác của Lê Minh, người nghe như thấy phảng phất khúc đồng dao quê, dung dị như hơi thở cuộc sống và thấm đẫm chất liệu dân ca của các vùng miền khác nhau trên dải đất hình chữ S. Có thể nói, tạo hóa đã ban phát cho người nhạc sĩ một trái tim giàu cảm xúc. Bằng những trải nghiệm năm tháng đời người, bằng những quan sát tinh tế, ông đã viết lên cung bậc da diết, sâu lắng, ngọt lành trong âm nhạc.
Âm nhạc của ông nhẹ nhàng, không cầu kỳ về khúc thức, không phô trương tính biểu đạt. Những giai điệu thấm đẫm cứ ùa vào lòng người nghe một cách tự nhiên, không áp đặt và miễn cưỡng. Âm nhạc của Lê Minh cũng giống như con người của ông vậy, luôn chân chất, giản dị, nhiệt thành, cởi mở, hòa đồng với những người xung quanh.
Nói đến những sáng tác của nhạc sĩ Lê Minh, đầu tiên phải nhắc đến “Lời ru” bởi ca từ và giai điệu của nó đã “đánh trúng” vào nỗi lòng của người Việt. Ai trong chúng ta mà lúc vừa mới lọt lòng lại không được nghe người bà, người mẹ ru ngủ bằng những bài ca trữ tình. Lời ru đã đưa con chìm sâu vào trong giấc ngủ và mãi đến khi lớn khôn nó vẫn cứ ám ảnh, khắc khoải con người ta về một thời thơ ấu đã qua.
Và bằng chất liệu âm nhạc của mình, nhạc sĩ Lê Minh đã “khoác” lên bài thơ “Lời ru” của thi sĩ Hoàng Hạnh một “bức tranh quê” với những hình ảnh hết sức thân thuộc, gần gũi làm nao lòng người nghe: “Ngậm lời ru, ru mẹ ngày xưa/ Bà đưa mẹ đến giấc trưa say nồng/ Để nay mẹ bế mẹ bồng/ Mẹ ru con cả tiếng lòng thương yêu/ Lời ru bay bổng cánh diều/ Thân cò lặn lội mây chiều sang sông/ Lời ru ai đó ngóng trông/ Muốn về quê mẹ mà không có đò/ Lời ru biết mấy đợi chờ/ Bố đi bộ đội từng giờ mẹ mong/ Thời gian con nước xuôi dòng/ Lời ru của mẹ, ai đong tháng ngày/ À ơi con ngủ cho say/ Làn môi chúm chím ngậm đầy lời ru/ Làn môi chúm chím ngậm đầy lời ru”.
2. Dù sáng tác ca khúc về nhiều miền quê, nhưng có lẽ nhạc sĩ Lê Minh lại dành sự ưu ái hơn cả cho vùng đất Kinh Bắc. Chẳng những thế mà khi nghe một số ca khúc của ông như: “Khách đến chơi nhà” (thơ Đỗ Việt Dũng), “Về hội Lim” (thơ Nguyễn Bá Thắng), “Giữa Điện Biên em hát câu quan họ” (thơ Giáp Đình Chiến) “Con nhện tìm duyên”, “Lối em về…”.
Người ta vẫn cứ tưởng ông là người Kinh Bắc. Đến chính Lê Minh cũng không giải thích được vì sao mình lại yêu vùng đất này đến thế. Mỗi lần được đặt chân về Bắc Ninh, Bắc Giang, được nghe những câu quan họ đằm thắm, được hiểu thêm về văn hóa và lối sống nghĩa tình của họ, Lê Minh lại tự nhủ: Mình phải làm một điều gì đó cho nơi này.
Bài hát “Khách đến chơi nhà” chính là cơ duyên đầu tiên đưa người nhạc sĩ xứ Thanh gắn bó với miền đất quan họ. Bài hát ca ngợi người Kinh Bắc mến khách khi mà ai đó sang chơi họ sẽ vừa rót nước vừa hát cho khách nghe, tượng trưng như “rót lời hát xuống chén trà mời nhau”.
Cái hay của bài hát là vẫn với những phong tục truyền thống ấy nhưng tác giả đã cho người nghe một bài ca vừa da diết, trữ tình vừa rộn ràng, tươi trẻ. Dẫu vẫn biết miếng trầu là cay, chén trà là chát, song đó chỉ là cái cớ cho mai trúc sánh bầy, loan phượng thành đôi: “Khách đến chơi nhà rằng mấy khi khách đến chơi nhà/ Rót lời, hát xuống chén trà mời nhau/ Rót lời, hát xuống chén trà mời nhau/ Để anh say một miếng trầu/ Dẫu rằng vẫn biết qua cầu gió bay/ Giá em đừng hát hay, giá em đừng nền nã/ Đừng áo tứ thân đừng khăn mỏ quạ/ Đừng hát câu người ơi người ở đừng về/ Trót buông ánh mắt ngập ngừng/ Để người dưng nhớ người dưng thế này/ Giá miếng trầu đừng cay, giá chén trà đừng chát/ Giá người ngoan đừng hát thì rỗi hơi ai lại phải lòng/ Để bây giờ ra ngõ ớ mới trông ra ngõ mà trông…”.
“Khách đến chơi nhà” mang lời ca và giai điệu đẹp, thấm đẫm hình ảnh quan họ, đặc biệt lại trùng tên với một bài hát quan họ cổ nên nhiều người đã lầm tưởng là dân ca. Thậm chí, gần đây trong một chương trình nghệ thuật lớn trên sóng của một đài truyền hình ở Trung ương, những người làm biên tập cũng không phân biệt được bài hát này là sáng tác mới hay dân ca.
Lý giải về điều này, nhạc sĩ Lê Minh cho biết: Ban đầu ông đặt tên bài hát là “Ra ngõ mà trông” như tên của bài thơ nhưng chính NSND Thúy Hường đã chủ động xin tác giả được đổi tên thành “Khách đến chơi nhà” để thay thế bài quan họ cổ đã có trước đó.
Xung quanh bài hát “Khách đến chơi nhà” còn có những lời tranh luận mà suốt 19 năm qua không có hồi kết. Đó là ngay khi bài hát ra đời, các nhạc sĩ ở Bắc Ninh đã tư vấn cho Lê Minh nên thay từ “rỗi hơi” bằng từ “bỗng dưng” vì từ cũ hơi “thô”. Vừa qua, trong buổi sinh hoạt tại Hội Âm nhạc Hà Nội, một nhạc sĩ rất nổi tiếng với những ca khúc mang âm hưởng dân ca cho rằng từ “rỗi hơi” làm hỏng bài hát.
Thế nhưng, ông vẫn kiên quyết bảo vệ ca từ bài hát bằng lý lẽ của riêng mình. Bởi, ông cho rằng, nếu người Bắc Ninh không hiếu khách, không nền nã, không hát hay, không sang trọng và lịch sự thì có ai “rỗi hơi” mà đến chơi. Theo ông, quan họ có những chỗ dịu dàng, mềm mại nhưng cũng có những chỗ mạnh mẽ, quyết liệt như trong câu “Có yêu nhau thì lấy quách nhau đi” (trích “Thân lươn bao quản lấm đầu”). Và trên thực tế thì suốt 19 năm qua, ca khúc đã “sống được” trong lòng công chúng và thường được chọn làm tiết mục biểu diễn đầu tiên trong các chương trình nghệ thuật, lễ hội, cưới hỏi… của người quan họ, đó là minh chứng cho những suy nghĩ của ông là hoàn toàn có lý.
3. Gần đây, nhạc sĩ Lê Minh có một sáng tác về miền Tây Bắc cũng rất ấn tượng mang tên “Bản vắng” được ông phổ từ bài thơ cùng tên của thi sĩ dân tộc Tày - Mai Liễu. Phải yêu và hiểu văn hóa miền núi một cách cặn kẽ, sâu sắc đến thế nào thì ông mới dám “chắp đôi cánh” âm nhạc cho thơ của một cây bút đã quá quen thuộc trong làng văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Quả thực khi giai điệu của ca khúc này vang lên người ta mới thấy cái tài của người nhạc sĩ. “Bản vắng” nhưng không gian hiện lên lại không hề vắng vẻ, trái lại rất rộn ràng, vui tươi, ở đó có những người dân lao động cần cù, chịu thương, chịu khó giã gạo bên dòng suối khi màn đêm buông xuống. Một hình ảnh đẹp, lãng mạn, đầy hình ảnh và thanh âm núi rừng: “Cụp xòa, cụp xòa/ Dòng suối dòng trăng/ Cối gạo qua đêm trắng bong cụp xòa cụp xòa/Bản vắng bản vắng, có người con gái đêm đêm mải ngồi thêu áo, thêu khăn, chỉ xanh chỉ hồng xâu vào nhịp chày giã gạo/Xâu vào từng hạt trăng tan…”.
Dẫu biết hoạt động nghệ thuật là con đường vốn dĩ đầy chông gai, thử thách và nếu không có bản lĩnh cùng tình yêu nghề thì con người ta sẽ dễ dàng bỏ cuộc, thế nhưng vượt qua những trở ngại ấy nhạc sĩ Lê Minh đã có một cuộc đời tràn đầy năng lượng với âm nhạc.
Người nhạc sĩ ấy vẫn ngày ngày vẫn như con ong chăm chỉ góp mật cho đời để rồi đến nay ông đã sở hữu một “gia tài” âm nhạc đồ sộ, được người nghe mến mộ và yêu thích. Và nếu nhìn nhận một cách thấu đáo và tinh tế, không khó để nhận ra những ca khúc của ông là những khúc ru tình mà ông đã khéo léo, tài tình “thổi hồn” vào những câu thơ của bạn thơ hay của chính bản thân ông.