Nhà thơ Hoàng Tố Nguyên: Người không chịu an phận

Thứ Hai, 17/05/2010, 09:58
Hoàng Tố Nguyên là nhà thơ Nam Bộ tập kết ra Bắc vào năm 1954. Thời gian đầu, khi anh "ngồi" ở báo Văn Nghệ, lớp trẻ chúng tôi ít dám lai vãng, coi nơi đó như "thánh đường" của văn học, bởi ở đó có Xuân Diệu, có Chế Lan Viên, có Tế Hanh… những "cây đa cây đề" mà chúng tôi thuộc thơ từ nhỏ. Hoàng Tố Nguyên là tác giả mới xuất hiện, về sau chúng tôi mới được đọc tập thơ "Gò Me" của anh.

Nhưng khi anh về báo Độc Lập thì lại khác, đó là nơi có ông Ngô Quân Miện nhỏ thó mà gần gụi, luôn hỏi về đời sống của chúng tôi và biết lắng nghe… Đặc biệt luôn có sự đồng tình, bộc lộ chỉ bằng một từ "Đúng! Đúng!" làm người nghe hởi dạ. Nhưng niềm vui trên hết: thỉnh thoảng được in bài thơ, bài bút ký, truyện ngắn… nhất là khi mỗi chúng tôi vừa có chuyến đi thực tế ở đâu về, đang hào hứng vì thấy văn mình khởi sắc khi viết về những miền đất lạ, con người mới…

Khi Hoàng Tố Nguyên xuất hiện ở báo Độc Lập với nhiệm vụ biên tập văn học, trực tiếp cả phần mỹ thuật, "mi" các trang báo thì một không khí mới tràn về. Phòng khách của báo Độc Lập nhỏ lại vì tiếng cười cởi mở xả láng của anh. "Cười rung cả rốn" là ấn tượng khá thống nhất của chúng tôi khi anh tiếp bạn tại phòng riêng, khi anh ngồi xếp bằng trên giường uống rượu, phanh áo đề lộ cái bụng bự mà nói cười rổn rảng. Anh là điển hình chất người Nam Bộ. Anh có cách chê độc đáo, khi nghe bài thơ dở: "Này! Cậu nằm cả tuần dưới ấy, kể hay như thế mà lại viết thế! Thật là… phí rượu!" rồi cười ha hả. Chả ai giận anh được! 

Ngoại hình của anh cũng rất đặc biệt: Anh bị hỏng một chân từ nhỏ, phải chống đôi nạng, nhưng thể lực rất sung mãn. Khi cần anh có thể đu từng bước dài, một chân mà đi nhanh hơn chúng tôi. Khi cần, chiếc nạng tay phải trở thành vũ khí. Anh chưa đánh ai, nhưng thẳng tính, đôi lúc nổi nóng, hay quát lớn, dỗ cây nạng rầm rầm xuống sàn lát gỗ. Có vụ rắc rối nào ngoài phố, chỉ vài câu can thiệp của anh là êm. Người ta còn ngỡ anh là thương binh, nên vừa sợ vừa nể. Trẻ con đường phố Bà Triệu rất thích anh, theo anh ròng ròng, nhất là thời gian anh nuôi được con khỉ nhỏ, thường cho ngồi lên vai. Hai thầy trò ngất nghểu trên phố như gánh xiếc nhỏ càng khiến trẻ con thích thú...

Khó hình dung con người "bặm trợn" ăn to nói lớn như vậy lại là người viết những dòng thơ đau đáu với quê hương Gò Công mà không biết khi nào anh mới được trở về:      

Quê tôi đó, mặt trông ra bể
Đốm hải đăng tắt lóe đêm đêm
Con đê cát đỏ, cỏ viền
Leng keng nhạc ngựa ngược lên chợ Gò
Ruộng vây quanh bốn mùa gió mát
Lúa nàng Keo cháy rực mặt trời
Ao làng trăng tắm mây bơi
Nước trong như nước mắt người tôi yêu…
("Gò Me", 1957)

Còn những câu thơ tình thì quá chừng da diết và hào sảng:

Anh từng đứng ngắm em lặng lẽ
Với tâm tình của trẻ mồ côi
Trong tay có cả đất trời
Vẫn chưa có trái tim người cạnh bên
("Quê chung", 1962)

Chưa có chuyến đi xa thì anh la cà "giang hồ vặt" quanh quanh ngoại vi Hà Nội, Hà Đông. Những chiếc xe đạp của chúng tôi là những tình nguyện viên đáp ứng mọi nhu cầu đi lại của anh. Anh may mắn có chúng tôi, chúng tôi may mắn hơn bởi những cuộc đàm đạo văn chương xen những chuyện vui nổ trời. Những bài thơ, câu thơ mới viết được đọc cho nhau nghe và được khen, được phang thẳng cánh, để tước đi những kể lể rườm rà, những cảm hứng nóng vội… Nơi gần, anh thích lui tới nhất là bãi Giữa sông Hồng, có nhà anh Thanh Hào. Đó là một xóm nhỏ trù phú, cây trồng trên đất phù sa màu mỡ xanh mát mắt, trước khi bị quy luật lở bồi của sông Hồng cuốn đi mất hút…

Không gì thú bằng chỉ mươi phút đạp xe, đến giữa cầu Long Biên, đến cái thang khá dốc xuống bãi Giữa, chúng tôi đặt cái yên xe trên vai mà leo xuống. Hoàng Tố Nguyên thì khéo léo đu từng bậc bằng đôi nạng.  Ít phút sau, chúng tôi đã ở giữa một cảnh sắc nông thôn yên bình, có tiếng gà nhẩy ổ, có tiếng chào mào đối đáp nhau trên bụi ớt đỏ au. Mấy con lợn nuôi thả tự do ủn ỉn ngay chân khách. Về đêm, mấy đứa chúng tôi cùng anh ngồi trên bãi cát giữa trời trăng sáng, nhâm nhi chén rượu với mấy củ lạc… hoặc mấy bắp ngô nếp non do chính vợ chồng chủ nhân gieo trồng giữa gió sông Hồng lộng thổi.

Có hồi, anh còn được hấp dẫn bởi cô em gái hiền hậu của chủ nhân (cũng bị tật ở chân) mà chúng tôi ngây thơ cứ định vun vào cho anh, mà không hiểu rằng hạnh phúc là sự bù đắp những thiếu hụt cho nhau chứ không phải hợp nhau ở những thiếu hụt! Chúng tôi nhanh chóng gạt ngay ý đồ đó để ít lâu sau anh có được cô Sa mạnh mẽ đảm đang ở Hương Canh mà anh luôn âu yếm gọi cả trong thơ là Em Sa (chúng tôi nhái là Elsa, tên người tình của nhà thơ Pháp Aragon). Ở Hà Nội, đi kèm anh thường có Băng Sơn, Tạ Vũ, Lữ Giang, Nguyễn Hà, Vân Long… rồi thi thoảng mấy đàn anh: Quang Dũng, Trần Lê Văn, Ngô Quân Miện. Ở Hà Đông thì có họa sĩ Lai Vu, Bế Kiến Quốc gày nhom kẽo kẹt đèo anh lang thang khắp các huyện Phúc Thọ, Ba Vì, thị xã Sơn Tây…  

Hành trình trong cuộc sống, tôi cũng bôn ba tỉnh này tỉnh khác như anh, nhưng có sự trùng hợp đặc biệt là hai chúng tôi cùng công tác ở báo Độc Lập, ở Ty Văn hóa Hà Tây (nay là Hà Nội) với thời gian lệch nhau: Anh thì làm báo Độc Lập, chán lại xin vào Hà Tây làm cán bộ phong trào, chán rồi lại đòi chuyển về Thái Bình cũng với công việc đó. Tức là anh đi một vòng cung từ thủ đô ra vùng biển, chặng dừng giữa đường là Ty Văn hóa Hà Tây, tôi lại từ biển (Hải Phòng) về thủ đô, điểm dừng là Ty văn hóa Hà Tây đến dăm năm. Vậy là chúng tôi đi ngược đường đời của nhau, trong khi vẫn cùng một con đường thơ, cùng một nghề biên tập!  

Có lần, tôi về Hà Tây thăm chỗ làm việc của anh, cũng là thăm dò, "dọn đường" để thay chân anh khi biết anh định rời đi Thái Bình. Anh thì có chị Sa bên cạnh, tỉnh nào muốn cầu hiền thì phải rước cả gia đình anh đi cùng. Còn tôi, sức hút lại là gia đình ở Hà Nội, nhưng Hà Nội đóng chặt cửa, tôi phải ghé tạm ở cửa ngõ thủ đô. Hôm đó, tôi gặp đúng lúc anh đang bị "tra tấn" bởi một "vè sĩ" địa phương. Nguyên ông này viết được một bản trường ca "Ta đi đắp đê", đưa đến Ty Văn hóa đòi in để phục vụ kịp thời nhiệm vụ đi dân công của tỉnh. Mấy hôm trước bản thảo đã được trả lời không in được. Tác giả không chịu, đòi phải được đọc cho nhà biên tập nghe, xem yếu chỗ nào thì sửa chỗ đó. Hoàng Tố Nguyên đã tìm cớ thoái thác. Nhưng đến hôm nay, tác giả đem theo một vệ sĩ to con, mặt mũi căng thẳng như sẵn sàng gây gổ, đòi nhà biên tập phải nghe bằng được... hàng nghìn câu… vè.

Cực chẳng đã, mọi người khuyên họ Hoàng nên thực hiện khổ nhục kế, cứ lặng mà nghe hết rồi tìm cớ thoái thác sau. Tôi đến đúng lúc nhà thơ đang "thọ nạn nghề nghiệp", mặt mũi khó đăm đăm vờ nghe chăm chú. Đại loại tôi nghe được những câu như: "Đắp đê thì phải tiến lên/ Tiến lên là phải tiến lên hàng đầu/ Hàng đầu là đứng ở đâu? Hàng đầu là đứng trên đầu chứ sao!"...Gã vệ sĩ đứng ngay sau lưng Hoàng Tố Nguyên, hai tay nổi bắp khoanh lại trước ngực…

Biết không có cách nào cứu được anh, tôi chạy sang phòng làm việc của bác Trần Lê Văn cạnh đó. Một hồi lâu sau, nghe tiếng nạng lộc cộc, tôi biết cuộc bình vè đã kết thúc, không rõ anh thoát ra bằng cách nào, nhưng tác giả và vệ sĩ đã hết căng thẳng, có lẽ đọc hết được tác phẩm của mình cho ông nhà thơ nghe là tác giả đã hả lòng… Thấy chúng tôi ngó ra, Hoàng Tố Nguyên kẹp cái nạng vào nách, vái dài một vái sau lưng khách. Bất đồ, gã vệ sĩ quay lại, chúng tôi tái mặt lo cho thi sĩ họ Hoàng, nhưng may quá, gã vệ sĩ chỉ cau mặt, hẳn là gã thấy mục đích chính của "đại ca" đã đạt được, chẳng cần gây sự làm gì…

Sinh năm 1928 tại xã Bình Ân, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang, tên khai sinh là Lê Hoằng Mưu, Hoàng Tố Nguyên chỉ sống ở quê Gò Công vào những năm thơ ấu: Học xong bậc tiểu học, ông lên Sài Gòn học trường Mỹ thuật Gia Định. Mười bảy tuổi tham gia Cách mạng tháng Tám 1945 tại đây. Khi Pháp tái chiếm Sài Gòn, ông hoạt động bí mật ở nội thành Sài Gòn. Từ 1947 đến 1949, ra vùng kháng chiến, ông làm Chủ tịch Hội học sinh Mỹ thuật kháng chiến Gia Định. Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957). 

Sau ngày giải phóng Sài Gòn hai tháng, Hoàng Tố Nguyên chưa kịp thu xếp trở lại quê nhà, thì bị bạo bệnh rồi mất (tại Thái Bình), để  lại người vợ góa và 3 đứa con thơ.

Nhà thơ Chế Lan Viên đã định vị về anh trong lời đề tựa tập "Từ nhớ đến thương": "Trong mấy nhà thơ Nam Bộ tập kết ra Bắc hồi ấy, phải nói rằng anh là một trong mấy người có tài hơn cả… Lần đầu  tiên khi thơ  anh xuất hiện ở thủ đô, nó đã được nhiều người yêu mến và giới sành thơ trân trọng".

Với tôi, Hoàng Tố Nguyên là một người bạn thơ lớn tuổi, một người anh thật cởi mở chân tình, hết mình với bạn bè và cuộc sống…

Vân Long
.
.