Người vợ lặng lẽ của nhà văn Xuân Thiều

Thứ Bảy, 03/06/2017, 08:05
Mặc dù đã ở tuổi 86, song cứ mỗi bận nghĩ đến những câu thơ  của các cô gái trong làng trêu chọc bà năm xưa, bà lại cười  tủm tỉm "Một bên chữ nghĩa văn chương/ Một bên bè nứa em thương bên nào?".


Số là ngày ấy, khi bà còn là một cô bán hàng  xén xinh đẹp ở chợ quê, liền một lúc có hai anh đến hỏi bà. Cả hai đều người cùng làng, một  anh cao to nhà giàu lắm, làm nghề buôn bè. Một anh là bộ đội, có tài viết văn làm thơ khiến nhiều người xao xuyến, nhưng mải miết chiến đấu năm thì mười họa mới gặp gỡ. Chọn lấy ai quả thật là không dễ dàng...Và rồi cuối cùng đã bà chọn anh bộ đội làm thơ, biết là có thể khổ nghèo phân ly, nhưng bà đã  quyết "Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam"

Mà đói no thật, lạnh lùng thật chứ không đùa. Cái năm lấy nhau, còn là thời kháng chiến chống Pháp, ông là bộ đội xa nhà đi chiến đấu  biền biệt, đến hòa bình lại vẫn phải đi, đóng quân mãi giới tuyến Vĩnh Linh, còn bà thì vò võ một mình nơi   làng Điểu Khê, Hà Tĩnh. Cũng bởi vậy mà đến 9 năm sau ngày cưới, ông bà mới có đứa con đầu lòng, đặt tên Thiều Quang.

Bà Nguyễn Thị San thay chồng - cố nhà văn Xuân Thiều - nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2017.

Rồi ông lại được điều ra Hà Nội, bà bế con theo ông, ở trong một căn nhà nhỏ nơi bãi Phúc Xá, không năm nào không phải bế bồng nhau chạy lũ lụt. Thương nhất là lũ con còn nhỏ của ông bà những lúc đó, ông thì dắt thằng con trai, bà bế hai đứa con gái chạy lũ, và chiều đến lại bơi ra nhà để tìm lô bản thảo của ông phải treo lên trần nhà, nhiều mùa mưa bão nước vẫn thấm ướt làm nhòe  hết nét mực.

Ở căn nhà ấy, ngày ngày bà đi làm nhà nước, là nhân viên của cửa hàng Bách hóa tổng hợp Hà nội, tan giờ làm lại tất bật về chợ búa, bếp núc, giặt giũ "hầu"chồng viết  văn và "hầu"  bốn đứa con nhỏ. Mà ngày đó, miếng ăn đâu đã đủ no, tấm  áo đâu đã đủ ấm. Gần như cả một đời bà chịu đựng, nhịn nhường lo cho chồng an tâm viết lách, có ly rượu ly bia đãi đằng bạn bè, lo cho con cái  học hành bằng anh bằng em cho chúng nên người...

 Sự hy sinh vất vả của bà luôn làm ông xúc động trên mỗi con đường ra trận. Năm 1969, giữa chiến trường ông viết  gửi về bà:

Thương em lắm, hậu phương bề bộn
Dắt mẹ cõng con sơ tán đường trơn
Phiếu gạo, phiếu dầu chong đèn tính toán
Báo động nghiêng đêm giấc ngủ chập chờn.

Thư em viết liêu xiêu nét chữ
Chỉ báo tin vui và chuyện tốt lành
Em giấu kín những điều thắc thỏm
Để yên lòng người đối mặt chiến tranh.

Em vĩ đại như hậu phương vĩ đại
Vẫn vững niềm tin, gánh nặng vai mòn
Và ta biết em cắn răng chờ đợi
Ngày sum vầy trọn vẹn nước non

Hậu phương ngày ấy của chúng ta thật vĩ đại,  những người vợ có chồng ra trận ngày ấy cũng thật vĩ đại. Bà chính là một trong những người vợ vĩ đại ấy...

 Chồng bà, ông - Đại tá, nhà văn Xuân Thiều, từng có thời cầm súng chiến đấu, nhưng sau này chỉ cầm bút làm thơ viết văn. Là nhà văn quân đội, nên phần lớn đời ông ở chiến trường. Những trang văn của ông rực rỡ như chính những ngày tháng ấy. Ông viết nhiều, nhiều lắm, từng được Giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu, Giải thưởng văn học Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng văn học Bộ quốc phòng, Giải thưởng Nhà nước 2001 và gần đây nhất là Giải thưởng cao quý nhất của Đảng và Nhà nước dành cho những đóng góp trong sáng tác văn học của ông là Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Bà đã có vinh hạnh thay chồng nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh do đích thân Chủ tịch nước trao tặng. Bởi bà phải lên nhận giải bằng xe lăn, Chủ tịch nước đã cúi xuống sát bà nói với bà những lời đầy xúc động và trao tặng bà tấm bằng cao quý của ông. Có lẽ đó cũng là phần thưởng cho chính bà, người vợ hiền, người thầm lặng gánh vác mọi việc nhà, việc con cái, mọi bão giông cuộc đời để nuôi các con nên người và thành đạt, và để  cho ông chỉ yên tâm ngồi viết và hoàn thành những sứ mệnh văn chương của mình...

Em vĩ đại như hậu phương vĩ đại
Vẫn vững niềm tin, gánh nặng vai mòn...

 Câu thơ ấy của ông như luôn đúng với bà qua mọi thời gian...

Vâng, bà là Nguyễn Thị San, người vợ yêu quý của Đại tá - nhà văn quân đội Xuân Thiều, cũng là người chị thân thiết của bao nhiêu nhà văn quân đội chúng ta như Hữu Thỉnh, Đỗ Chu, Vương Trọng, Ngô Vĩnh Bình, Nguyễn Trí Huân, Lê Thành Nghị, Nguyễn Bảo......

 Xin cảm ơn vợ một nhà văn lớn!

Châu La Việt
.
.