Người góp phần giữ hồn trống trận Tây Sơn

Thứ Ba, 08/05/2018, 08:03
"Tiếng trống ấy được cất lên ngay chính trên mảnh đất Tây Sơn huyền thoại như có một điều gì đó hào sảng, thiêng liêng mà không nơi nào có được. Trải qua bao biến cố thời cuộc, thanh âm vang vọng từ dàn trống trận vẫn như một khúc ca hùng tráng thôi thúc lòng tự hào về chiến công của tiền nhân", chị Thuận nói đầy tự hào.


Trống trận Tây Sơn (còn có những tên gọi khác như trống trận Quang Trung hay nhạc võ Tây Sơn) - một biểu tượng văn hóa của Bình Định đã được hậu duệ nhà Nguyễn đất Tây Sơn - Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Thuận (SN 1960, ở khối 1A, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn) truyền giữ thành công. Có thể nói, chị là người phả được hồn thiêng sông núi, hào khí thần tốc vào từng thanh âm khi réo rắt, khi hoan ca của dàn trống trận Tây Sơn.

1.Cha chị Thuận là cụ Nguyễn Đào, là thành viên trong ban nghi lễ của đền Kiên Mỹ - nơi thờ Tây Sơn tam kiệt. Thời ấy, cụ Đào là người duy nhất đánh được trống trận Tây Sơn trong các lễ giỗ được tổ chức hằng năm vào mùng 5 tháng giêng và rằm tháng 11 âm lịch. Khi lên 6 tuổi, ngoài việc học chữ ở làng, chị Thuận bắt đầu thích thú với tiếng trống trận sau mỗi lần nghe cha đánh nên thầm lặng đi tìm vỏ lon sữa bò, tập tọng làm theo với đôi đũa tre, leng keng suốt ngày.

Từ 1 lon, chị dần dần gõ lên được 2 lon, rồi cứ tăng dần đến 12 lon như số trống vốn có của dàn trống trận. Nhận thấy con gái có năng khiếu, cụ Đào bắt đầu cho con làm quen với dàn trống trận và truyền dạy bằng tất cả tâm huyết, với mong muốn tiếng trống thể hiện hào khí Tây Sơn không bị thất truyền. Đến năm 10 tuổi, chị đã có thể diễn tấu trống trận. Và những âm thanh hùng tráng, thúc giục lòng người này đã trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống của chị.

Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Thuận.

Năm 1976, khi chị Thuận mới 16 tuổi, cụ Đào qua đời. Từ đó, chị được các vị trong ban nghi lễ của đền Kiên Mỹ và dân làng tín nhiệm, kế tục vị trí của người cha. Một năm sau, chị là người duy nhất biểu diễn trống trận Tây Sơn tại Liên hoan Nghệ thuật quần chúng tỉnh Bình Định và được chọn đi thi Hội diễn Nghệ thuật quần chúng toàn quốc tại tỉnh Khánh Hòa.

Năm 1979, sau khi Bảo tàng Quang Trung thành lập, cùng với việc sưu tầm các hiện vật lịch sử của nhà Tây Sơn nằm rải rác ở các địa phương trong nước, nhạc võ Tây Sơn được phục dựng, chị bắt đầu về đây làm việc từ đó cho đến nay.

Chị Thuận tâm sự rằng, trước lúc quy tiên, cụ thân sinh đã truyền bảo dù khó khăn đến mức nào cũng phải gắng giữ lấy điệu hồn của tiếng trống trận Tây Sơn như một bảo vật của dòng họ, xứ sở. Sinh thời, người anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ rất thích tuồng, trống trận và thường sử dụng trong các dịp lễ, đặc biệt là dùng trống trận khi đưa quân xuất trận, cổ vũ ba quân. Tiếng trống trận là một vũ khí thần diệu, gắn liền với những chiến công hiển hách của nghĩa quân Tây Sơn.

"Tiếng trống ấy được cất lên ngay chính trên mảnh đất Tây Sơn huyền thoại như có một điều gì đó hào sảng, thiêng liêng mà không nơi nào có được. Trải qua bao biến cố thời cuộc, thanh âm vang vọng từ dàn trống trận vẫn như một khúc ca hùng tráng thôi thúc lòng tự hào về chiến công của tiền nhân", chị Thuận nói đầy tự hào.

2.Chị Thuận bảo, một bài trống trận Tây Sơn bao gồm 3 hồi: Xuất quân, Hãm thành, Khải hoàn. Khi hành quân, là lúc tiếng trống khoan thai hay dồn dập. Lúc vây hãm quân thù, là lúc tiếng trống thể hiện khí thế chiến đấu thần tốc, hùng dũng và ác liệt, làm người xem tưởng như có súng nổ, gươm khua, ngựa hí, tiếng binh khí chạm vào nhau. Và khi đoàn quân chiến thắng ca khúc khải hoàn, là lúc tiếng trống trở nên sôi nổi, vui tươi; và cả sự trầm lắng tưởng niệm vong hồn tử sĩ trước khi những thanh âm reo vui, rộn rã trong khúc khải hoàn ca chan hòa muôn phương.

Trống trận Tây Sơn không chỉ là hiệu lệnh, là lời động viên, cổ vũ ba quân, mà còn là những đòn thế tâm công xoáy sâu, đánh thẳng vào tâm lý của quân thù, góp phần làm nên thắng lợi. Nó hàm chứa nhiều đòn thế võ thuật siêu đẳng.

Khi xưa, người đánh trống trận cũng phải tự chiến đấu để vừa bảo vệ mình vừa bảo vệ tiếng trống, tín hiệu giữ nhịp trận đánh không bị ngắt quãng. Chính vì lẽ đó mà đôi dùi trống, động tác đánh trống, bộ pháp di chuyển cũng là một nghệ thuật tự vệ. Khi đánh trống trận, người đánh di chuyển hết sức linh hoạt, bất cứ bộ phận nào của thân thể cũng có thể sử dụng để đối địch.

Khi biểu diễn nhạc võ Tây Sơn, ngoài đôi tay truyền lực, người đánh trống trận phải di chuyển cả đôi chân theo nguyên tắc "túc bất ly địa" để đánh 12 trống đúng theo nhịp của bài võ. Người đánh trống đánh cả hai tay và cùi chỏ, cùng hai dùi trống dài khoảng 30cm đánh cả hai đầu. Đưa hai tay lên múa là có thể đánh cả 4 mặt trống hay tang trống cùng một lúc.

Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Thuận biểu diễn trống trận Tây Sơn (ảnh tư liệu).

Vào một bài trống, nghệ nhân đánh trống có thể khiến người nghe cảm thấy cảnh mưa rào thác đổ, khi nhặt khi khoan, khi dồn dập bức tim, khi hào hùng phấn chấn. Và đặc biệt người đánh trống vừa đánh vừa di chuyển, chứ không ngồi một chỗ như nhạc công tấu nhạc.

Để đánh được cùng lúc 12 trống, nghệ nhân phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa thi triển thân pháp, bộ pháp, nhãn pháp nhanh nhẹn, uyển chuyển như một vũ công thực thụ. Đặc biệt, đôi tay cầm dùi trống như múa trên mặt trống với những kỹ thuật ve, vỗ, bịt đến mức điêu luyện mới có thể tạo nên những giai điệu âm vang hào khí một thời. Thế trận thần tốc, táo bạo năm nào dường như đang hiện diện, rần rật chuyển lan trong từng mạch nhịp của người nghe.

3.Năm nay đã gần 60 tuổi nhưng bất cứ ai khi nhìn chị Thuận đánh trống trận đều không hề cảm thấy dấu ấn của tuổi tác. Từ đôi tay nhanh mạnh và biến ảo đến thần thái sắc lẹm, chị có khả năng thể hiện được đúng cái hồn, cái tinh túy ẩn chứa trong tiếng trống trận Tây Sơn thuở khai sinh. Điều trăn trở đối với nữ nghệ nhân này là làm sao để võ nhạc Tây Sơn luôn vang vọng. Bởi vì để đánh thuần thục trống trận rất khó, ngoài việc am hiểu, đòi hỏi người học phải chịu khó và thực sự yêu nghề, tỉ mẩn trong từng động tác.

Trong xu thế nhiều loại hình tân nhạc du nhập, thế hệ trẻ dường như có phần lơ là với môn nghệ thuật truyền thống này. Rất may, đến nay chị Thuận đã truyền nghề lại cho cô con gái út của mình là Dương Thị Hương, cũng đang là thành viên trong đội nhạc võ Tây Sơn ở Bảo tàng Quang Trung. Dù chưa thể đánh đạt khả năng như mình, nhưng chị sẽ tiếp tục rèn giũa để trống trận Tây Sơn không thất truyền.

Giám  đốc  Bảo  tàng  Quang Trung Châu Kinh Tú nói rằng, trống  trận Tây Sơn như một loại hình nghệ thuật đặc biệt, có sự cộng hưởng giữa yếu tố quân sự và âm nhạc dựa trên nền âm cổ truyền hò, xang, xế... Thể hiện được điệu hồn của trống trận Tây Sơn là điều cực kỳ khó, không phải ai cũng làm được. Đã có nhiều người  biểu  diễn  trống  trận Tây Sơn nhưng hiện nay, nữ nghệ nhân Nguyễn Thị Thuận - đời  thứ  9 trong gia đình có truyền thống đánh trống trận là người phả được hồn thiêng sông núi, hào khí thần tốc vào từng thanh âm khi réo rắt, khi hoan ca của dàn trống trận Tây Sơn.

Nhạc võ Tây Sơn nổi danh khắp cả nước, là niềm tự hào của người dân Bình Định. Từ nhiều năm qua, nhạc võ Tây Sơn đã phục vụ đắc lực hoạt động văn hóa, du lịch của tỉnh Bình Định, trở thành một sản phẩm du lịch văn hóa tiêu biểu, đặc trưng và rất được du khách gần xa mến mộ, yêu cầu được thưởng thức mỗi khi đến với Bình Định.

Với Bảo tàng Quang Trung, biểu diễn nhạc võ Tây Sơn luôn là tiết mục "đinh" trong chương trình phục vụ du lịch, sự kiện. Bây giờ, chỉ cần có đoàn khách tham quan, nữ nghệ nhân Nguyễn Thị Thuận với hai bàn tay cầm dùi sẽ lướt tung tẩy trên 12 mặt trống lớn nhỏ cùng những âm thanh phát ra như một bài ca chiến trận. Trong đó, có tiếng vó ngựa, bước chân rầm rập của đoàn quân, tiếng gươm đao xông trận và khúc khải hoàn...

Với những cống hiến xuất sắc trong giữ gìn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, năm 2015, nghệ nhân Nguyễn Thị Thuận được Chủ tịch nước tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú. Từ năm 1977 đến nay, chị được nhận huy chương của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Bằng khen của UBND tỉnh Bình Định và nhiều giải thưởng có giá trị tại các Hội diễn Nghệ thuật quần chúng toàn quốc.
Phan Thuận Phin
.
.