"Nàng thơ" đặc biệt của thi sĩ Yến Lan

Thứ Tư, 19/05/2010, 08:22
Nhắc đến những người bạn tâm đầu ý hợp của ba  tôi - nhà thơ Yến Lan - mà tôi không nhắc tới cô Châu Thị Hằng là thiếu sót lớn. Bởi lẽ người bạn gái này đã để lại trong tâm trí ba tôi những tình cảm rất tốt đẹp.

Với ba tôi, cô Hằng là người có công nhiều nhất, đã gửi 100 đồng Đông Dương để nhóm thơ "Bàn Thành Tứ Hữu" (gồm các nhà thơ Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên) tổ chức đám cưới cho chú Chế Lan Viên và cô Giáo. Cô Hằng cũng là người tài trợ cho chuyến đi ra Huế của ba tôi để rồi từ Huế, ba tôi viết nên vở kịch thơ "Bóng giai nhân".

Kể lại sự gặp gỡ ban đầu với cô, ba tôi cho biết: Lần ấy, vào Sài Gòn thăm nhà thơ Lê Tràng Kiều, hai ông rủ nhau lên Hà Tiên thăm vợ chồng nhà thơ Đông Hồ - Mộng Tuyết. Bác Mộng Tuyết tế nhị tạo cơ hội để ba làm quen với cô gái Hội An hiền lành, tốt bụng này. Cô Hằng bằng tuổi ba (sinh năm 1916), qua lần gặp gỡ đầu tiên, hai người đều có cảm tình với nhau. Lãng mạn làm sao, lần đầu tiên gửi thư cho chàng Xuân Khai (bút danh của ba tôi khi ấy), mặc dù không biết rõ địa chỉ, chỉ loáng thoáng nghe nói ba tôi sống tại chùa Ông - Bình Định, vậy mà cô Hằng vẫn mạnh dạn gửi thư, trên bì thư đề: "Kính gửi: Thi sĩ Xuân Khai ở chùa Ông Bình định". Ấy hế mà thư cũng đến đúng người cần tìm. Bài thơ "Xào xạc lá đa" mãi sau này ra Bắc ba mới viết, nhưng đó là dư âm của tình xưa lắng lại mà vào thơ.

Xào xạc sân chùa rụng lá đa
Tuổi thơ như thế đến tìm ta
Tiếng trong, tiếng đục nhòa nhân ảnh
Tô thếp bao nhiêu vẻ nhạt mờ.
                                                                     

Thỉnh thoảng trong sinh hoạt đời thường, tôi nghe ba nhắc tên cô với một sự trân trọng đặc biệt. Chuyện trò với bạn thơ, ba cũng hay ca ngợi người con gái có tâm hồn kỳ lạ này. Lúc đầu tôi không để ý, nhưng khi ông mất, lục lại đống tài liệu lưu, tôi thấy có một xấp thư dày cộp, đề tên người gửi là Châu Thị Hằng. Sẵn tò mò về người đàn bà mà ba trân trọng, tôi thử đọc vài bức. Thư cô viết có một thứ tình cảm lạ lạ và trẻ trung làm sao...

Năm 2001, khi giúp má biên soạn tập hồi ký "Yến Lan, nhớ mãi về anh", tôi  nhớ ngay đến cô và hy vọng rằng qua cô, tôi sẽ hiểu thêm về người cha của mình khi còn trẻ. Tôi biên thư cho cô với lời khẩn cầu tha thiết: "Cô ơi! Chép cho cháu vài bài thơ của Xuân Khai đã tặng cô trong thời gian hai người còn giao lưu. Cháu đang giúp má cháu hoàn thiện hồi ký về ba. Cô sẽ là một nàng thơ trong hồi ký của ba nhé".

Cô hồi âm cho tôi bằng lá thư chữ viết khó xem và không thẳng hàng:  

"Hà Nội 18/2/2001.

Cháu Bích Thủy thân mến, cô xin cảm ơn cái thư của cháu! Viết hồi ký về ba mà có những tên người bạn của ba cháu là hay lắm, hồi ký thêm phần sinh động thế mà cô không đáp ứng yêu cầu của cháu được. Cô xin cháu! Cô tha thiết đề nghị cháu đừng để tên cô vào một bài nào của cháu viết về ba cháu. Mấy lý do cụ thể:

1/ Cô chỉ là người đọc và thích thơ của ba cháu. Đọc mà còn nhiều bài chưa hiểu… Cô không biết gì về thi tứ thì làm sao là bạn của nhà thơ như nhà thơ Yến Lan nổi tiếng trên các báo…

2/ Ba cháu có tặng cô bài nào đâu! Có bao giờ nhắc tên cô đâu! Hãy làm theo ý ba cháu.

Cách đây năm sáu chục năm, cái tuổi sắp bước vào đời. Cuộc sống chưa biết gì về đời mà ba cháu đã gửi cho cô 3 tập giấy vở học trò với rất nhiều bài thơ với một lời dặn: "Chia nhau cất giữ vì  sắp chiến tranh! Con người sẽ mất còn thơ sẽ sống mãi với đời". Thế mà cô không giữ được vì cô không biết cách giữ, vì chạy bom trong kháng chiến 9 năm đã mất hết rồi. Năm hòa bình cô mới ở Việt Bắc về (1956-1957) cô nhớ không chính xác. Có anh bạn của ba cháu nhà văn Nguyễn Đình (đồng hương với cô) gặp cô và kể chuyện có biết ba cháu. Cô có nhờ anh Đình nói giúp với ba cháu: "Cô tạ lỗi là không giữ được mấy tập thơ…". 

3/ Trước 1945 làm được bài thơ nào ba cháu gửi ngay cho cô, lúc ấy cô chuẩn bị đi kháng chiến, cô có báo cho ba cháu. Ba cháu chỉ viết lại có mấy câu: "Chắc là không còn gặp nhau, khi nào ốm đau thì nếu có thể hãy tìm gặp nhau".  Năm 1996 cô mới biết ba cháu ốm. Cô đã viết thư vì chắc chắn là không đi thăm được! Ba cháu trả lời bằng 4 câu:

Cái hẹn năm xưa đã lỡ rồi
Để trong chờ đợi nóng lòng ai
Tay bưng thuốc đắng nhìn xuyên chén
Năm tháng còn trên mấy đốt tay 

Chữ "Cái hẹn" của ba cháu tuyệt vời không phải lời hẹn ước của nam nữ, cũng không phải câu hò hẹn mà là cái hẹn không có ngày, cái hẹn khi ốm đau. Đúng là giọng và lời của một nhà thơ lão luyện! Mà là nhắc lại cái ngày xa xưa ấy cách đây 1/2 thế kỷ. Trong bài "Độc ẩm":

Uống ngụm đầu tiên những ước mong
Đưa mình trở lại chốn Thành Tô
Hồ Đông tưởng cạn từ năm ấy
Với chén trà chuyên kết ban đầu

Chữ  "tưởng cạn" ba cháu dùng câu dùng chữ thì không ai giống được. Tính cách bộc lộ là rất muốn ngao du với thiên hạ, gặp lại cảnh cũ, bạn xưa chưa quên vì nước Hồ (tức tình bạn của nhà thơ Đông Hồ - Mộng Tuyết) chưa cạn. Ba cháu có một nội tâm rất cao thâm, quên mình mà chỉ sống với thơ ca, kín đáo, thầm lặng, không thích ồn ào, không thích dùng chữ "to lớn".

Một lần nữa xin cảm ơn cháu và thiết tha đề nghị đừng viết tên cô vào đâu hết.

Thân ái gửi thăm gia đình cháu".

Năm tháng trôi qua, mỗi người đều có gia đình và con cháu đề huề. Trong gia đình riêng, họ đều là người chồng, người vợ chung thủy, rất mực yêu thương tổ ấm của mình. Và dẫu cho cuộc sống còn nhiều bề bộn với bao toan tính, nhưng những kỷ niệm của hai người vẫn nguyên vẹn như ngày nào.

Sau giải phóng, ba tôi về sống tại quê, với căn nhà cấp 4 xập xệ. Từ  thủ đô Hà Nội, tháng nào cô Hằng cũng thư vào thăm, quan tâm đến từng bữa ăn, viên thuốc cho ba tôi. Cô thật sự lo lắng đến sức khỏe của ông như người nhà. Một lá thư là một lời chăm chút, là sự dõi theo bệnh tình rồi dặn dò thấu đáo, rằng đừng quên uống thuốc, ngày uống mấy lần, uống vào lúc nào, còn dỗ dành ông như đứa trẻ.

Tình cảm của họ thật đẹp! Tôi những mong có được một người bạn như ba. Bạn trai của tôi, khi bị từ chối là họ quên tôi ngay sau đó. Còn ba và cô, tuy mỗi người có gia đình riêng song họ vẫn quan tâm đến nhau. Vì thế, tôi không thể không đưa tên cô vào bất kỳ hồi ký nào của tôi viết về người cha của mình! Tôi trân trọng tình cảm mà cô từng dành cho ba tôi. Tôi thay tên để cô an tâm về "hai mối liên hệ khác". Thực ra cô quá lo xa, mỗi lá thư cô gửi cho ba tôi, má tôi đều cảm nhận được một thứ tình của hai người khác giới nhưng không phải là tình yêu nam nữ, dù rằng nó chứa rất nhiều màu sắc khó nói lắm. Chẳng thế mà có lần má hỏi tôi và cũng như tự hỏi chính mình "Tại sao hai người thương nhau như vậy mà không lấy nhau nhỉ?". Tôi nhìn má và nheo mắt cười, chậm rãi nói vào khoảng không: "Nếu nói về tình bạn của hai người thì hơi quá, nhưng về tình yêu thì chưa thấy gì". Má tôi cười rồi mắng yêu: "Cha cái con này".

Chính ba tôi cũng ngạc nhiên về người bạn gái của mình. Ba tâm sự với chú Khổng Đức: "Kỷ niệm về Hà Tiên thì nhiều lắm và là cả một trời tình cảm. Người bạn gái - người tôi viết ở mấy dòng đầu nơi bài hồi ký "Chiều chiều mây kéo về kinh" gửi Chế Lan Viên sáng nay. Đó là câu chuyện thuộc về tâm lý kỳ lạ và độc đáo, cho đến bây giờ tôi cũng chưa hiểu ra sao, một con người tốt tuyệt vời và cũng lãng mạn tuyệt vời. Thong thả tôi sẽ kể lại vài nét cho anh rõ. Đó là nguồn thơ tôi viết ra mấy bài...".

Hè năm 2002, ra thăm Hà Nội, tôi đem hồi ký của má tôi "Yến Lan, nhớ mãi về anh" vừa xuất bản, tặng cô. Cô khoe cũng vừa xem bài giới thiệu trên Báo "Người Lao Động". Nói rồi cô vào nhà lấy ra một cặp sơmi màu xanh, bên trong là những mẩu báo nhỏ được cắt ra. Cô cẩn thận lấy từng tờ đưa tôi, phần lớn là những bài viết về Yến Lan, điều đó có nghĩa là ba tôi vẫn tồn tại trong lòng cô. Tôi thật sự cảm kích về thái độ trân trọng của cô đối với người bạn thơ - ba tôi.

Trước khi quay vào TP HCM, tôi lại đến thăm cô lần nữa. Cô nhìn tôi cười, bảo: "Cô xem xong hồi ký rồi, cháu giúp cho má in được hồi ký này là tốt lắm đấy. Còn điều này, cô là người Hội An chứ không phải người Nam Bộ đâu". Rồi cô tủm tỉm: "Ba cháu là một người đặc biệt, rất khác với những người đàn ông khác. Ba ý nhị lắm". Có một cái gì đó ẩn chứa trong câu nói thêm "rằng kể từ khi biết Yến Lan đến nay, hễ đọc báo thấy có bài nào viết tên Yến Lan thì cô lập tức lấy kéo cắt ra sưu tập cẩn thận, không sót một bài nào”.

Câu chuyện cô nói về ba tôi cũng chỉ dừng lại ở đó. Nhưng lời nhận xét "ba ý nhị lắm" cô nói mà như gieo vào lòng tôi cái gì đó để tính tò mò của tôi trỗi dậy; sau đó tôi tìm ra cái ý nhị đó là ở chỗ này: Khi đọc thơ của ba tôi trên báo, nghe trên đài, cô nhận ra ngay bài nào, đoạn nào, từ nào viết dành cho cô (điều này cô tự nói ra chứ không phải tôi nghĩ)

Lâm Bích Thuỷ
.
.