Làm sao quên được nhà thơ Nguyễn Đình

Thứ Hai, 01/10/2012, 08:00

Nói đến nhà thơ Nguyễn Đình, hình như nhiều bạn đọc trẻ ngày nay không biết? Mới đây, có một cậu thanh niên nói với tôi, cậu ấy muốn tìm tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Đình mà chẳng biết tìm ở đâu! Tôi đã hứa sẽ giúp cậu. Tôi lên mạng tìm hoài, nhưng không có tên và tác phẩm nào của chú cả, thật tiếc!

Trong lời đề tựa của một tập thơ cho ba tôi, nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: "Có nhiều lý do. Nhưng thơ là cái đẹp lặng im, đi lầm lũi trong im lặng. Nếu không ai nhắc đến, chỉ ra, gọi tên, tán dương thì nó bị vùi lấp đi, đầu là trong im lặng mà sau là sự lãng quên".

Không lẽ, người ta đã quên nhà thơ trào phúng Nguyễn Đình rồi sao?

Qua mạng của nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo tôi được biết thêm: Nhà thơ Nguyễn Đình được độc giả yêu thích qua những bài thơ trào phúng. Thế nên ông trở thành đối tượng để các nhà văn đùa tếu. Một hôm, nhà văn Xuân Thiều ra một vế đối cho anh em bạn văn: "Nguyễn Đình thi với Nguyễn Đình Thi". Mãi một thời gian dài, khi nhà thơ Thanh Tịnh biết chuyện, ông mới có vế đối thật sự hoàn thiện: "Trần Thanh địch cùng Trần Thanh Địch" (Trần Thanh và Trần Thanh Địch đều là hai nhà văn nổi tiếng). Ai cũng khen Xuân Thiều và Thanh Tịnh đã có một câu đối để đời!

Trên văn đàn có thể ít người biết và nhớ đến chú, nhưng người nào đã tiếp xúc với chú thì khó có thể quên được một nhà thơ mà "cái tâm bằng ba chữ tài" ấy được.

Nhà thơ Lưu Khánh Thơ nhớ lại: "Nhiều năm rồi mà tôi vẫn còn nhớ điệp khúc: "Nhà 96 các cháu rất ngoan/ mỗi khi lên cầu thang thì đi nhẹ bước/ khi xuống bếp lấy nước thì không làm bẩn nhà/ ấy thế mới gọi là/ là các cháu ngoan/ ấy thế mới gọi là/ là các cháu ngoan". Bài hát này khi đi biểu diễn văn nghệ ở khu phố đã giành được giải nhất. Bọn trẻ trong khu nhà tập thể hễ đứa nào có chút năng khiếu ca nhạc đều trở thành hạt nhân văn nghệ của trường, của lớp vì được toàn các nhạc sĩ tên tuổi hòa âm luyện giọng".

Nhà thơ trào phúng Nguyễn Đình, tác giả nhiều bài thơ châm biếm đả kích cũng là người rất tâm lý. Văn nghệ sĩ thường làm việc đêm, ban ngày muốn nghỉ ngơi thì trẻ con lại thường đùa nghịch ồn ào. Bảo thế nào bọn chúng cũng không nghe, càng mắng mỏ, dọa nạt chúng càng làm ồn. Nhiều khi chuyện trẻ con đã làm mất lòng người lớn. Nhà thơ Nguyễn Đình đã nghĩ ra cách giáo dục bằng "văn học nghệ thuật". Ông viết lên tấm bảng to trên tường nhà mình câu chuyện Bác Hồ đã quỳ xuống nhấc cái chuông treo trên cầu thang để giữ giấc ngủ cho người cần vụ. Kết thúc chuyện ông làm mấy câu thơ: "Quỳ gối nâng chuông cho khỏi động/ Tấm gương cao cả vạn đời soi/ Cháu ngoan của Bác Hồ ơi/ Nhẹ chân khẽ tiếng cho người nghỉ trưa/ Mồm la chân cứ nhảy bừa/ Làm người rức óc Bác ưa không nào?".

Vậy là lũ trẻ con trở nên ngoan hiền đến bất ngờ! Nhà thơ Nguyễn Đình rất tài làm thơ ứng khẩu kiểu "Bút tre". Mỗi khi làm bích báo nộp ở lớp, khi nào bí quá chúng tôi lại phải nhờ đến ông, thù lao trả bằng cách… nhổ tóc bạc. Ông cũng hay bị được trở thành nhân vật chính trong các bài thơ sáng tác tập thể truyền miệng theo kiểu văn học dân gian. Mọi người trong khu nhà vẫn nhớ bài thơ vui do nhà thơ Vĩnh Mai và Xuân Quỳnh "tức cảnh" sáng tác trong một vài phút.

Trong nhiều bài thơ châm biếm đả kích chế độ ngụy quyền Sài Gòn, nhà thơ Nguyễn Đình thường gọi Thiệu - Kỳ là Thẹo - Cầy. Nên có thơ rằng: "Cuộc đời sao khéo phất phơ/ Ăn cơm tập thể ngâm thơ Nguyễn Đình/ Cơm tập thể thiu thiu, thiếu thiếu/ Thơ Nguyễn Đình Thẹo Thẹo, Cầy Cầy/ Cơm kia cùng với thơ này/ Cuộc đời như thể đi đày Côn Lôn!". Nghe Xuân Quỳnh đọc bài thơ kèm theo tiếng cười tinh nghịch, ông không giận mà còn cười khoái trí và khen: "Khá đấy".

Còn với gia đình tôi, chú Nguyễn Đình là người bạn thủy chung, trước sau như một. Trong hành xử chú không bao giờ so đo, tính toán, luôn làm những điều gì tốt nhất cho bạn, là người suy nghĩ sâu sắc, nhạy cảm với nhiều vấn đề.

Quê chú Nguyễn Đình ở Hội An, nhưng có thời chú dạy học ở thành phố Nha Trang. Ở đây, chú hay tới nhà bác Quách Tấn. Đây là "điểm hẹn văn hóa" của giới trí thức trẻ, là nơi giao lưu, sinh hoạt nghiên cứu, vịnh thơ Đường; nơi gặp gỡ các khách yêu thơ…

Ba tôi (nhà thơ Yến Lan) thường vào nhà bác Tấn để cùng học thơ Đường, thơ Pháp với bác. Rồi gặp và quen thân chú Nguyễn Đình. Bác Tấn thấy chú Đình là người có học vấn, giản dị, dễ gần nên đã tác hợp với các bạn trong "Tứ Hữu Bàn Thành". Tuy không phải là thành viên của nhóm "Tứ Linh" (gồm các nhà thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Quách Tấn, Yến Lan), nhưng chú Đình có công không nhỏ trong việc quảng bá thơ Hàn Mặc Tử với khách thơ ở khu vực miền Trung.

Hàn mất sớm, trách nhiệm nhóm phải quảng bá rộng rãi thơ ông ở Nha Trang và Qui Nhơn. Trong khi bác Quách Tấn soạn về thân thế, sự nghiệp văn chương thì chú Nguyễn Đình được phân công đọc kỹ thơ Hàn để chuẩn bị diễn thuyết trước công chúng cho trôi chảy. Chú đã hoàn thành mỹ mãn công việc. Kết quả rất khả quan, bác Tấn ưng bụng, nói: "Những bài của Chế, Lan và tôi đã soạn đều giao cho Đình để Đình thay chúng tôi nói về sự nghiệp của Tử, còn chúng tôi phân công nhau đọc thơ. Chế đọc thơ Pháp, Lan đọc thơ Việt, tôi đọc thơ chữ Hán, rồi truyền cho nhau những "cái hay" đã tìm được ở trong thơ Hàn, còn Đình đóng vai trò dự thính… Đình làm việc gì cũng chỉn chu".

Tôi rất quý chú Nguyễn Đình. Thuở chúng tôi còn nhỏ, chú là kho chuyện tiếu lâm của chị em tôi. Với người lớn, chú hay kể về ma quỉ; nghe sợ đến dựng tóc gáy. Vậy mà tôi khoái nghe lỏm thứ chuyện này mới lạ chứ. Nghe nhiều đến độ thành bệnh "sợ ma" mãn tính!

Tập kết ra Bắc, chú không dạy học mà làm… nhà thơ trào phúng. Tôi chưa thuộc câu thơ nào của chú thì chú đã đi xa! Đời chú sao ngắn ngủi đến thế, chỉ đến tuổi 57 (1918-1975) là dừng!

Chú Nguyễn Đình là người sống trọn tình, trọng nghĩa, có trước có sau. Bùi ngùi nhớ lại những năm tháng ở Hà Nội, khi ba tôi gặp "nạn" văn chương, một vài bạn thân của ba vì sợ vạ lây nên ít đến nhà bàn chuyện làm thơ, tranh luận nghệ thuật như xưa. Chỉ còn một vài người, như chú Phạm Hổ, chú Nguyễn Thành Long và chú Nguyễn Đình vẫn đều đặn những ngày chủ nhật hay lễ tết đến với ba như hồi ở miền Nam!

Những lần chú Nguyễn Đình đến chơi nhà tôi, chú vẫn nói những chuyện hài duyên dáng, thâm nho như cũ, không có gì thay đổi trong chú cả.

Một hôm, chú Nguyễn Đình đến thăm bạn (ông này làm ở Bộ Nội vụ), thấy có mấy tập thơ "Giọt trăng", tác giả là Quách Tấn, gửi cho em trai Quách Tạo. Dấu Bưu điện Sài Gòn - ParisParis - Hà Nội.  Dấu bưu điện ghi rõ ngày gửi đã lâu, sao vẫn còn nằm ở đây? Sao chưa đến tay anh Tạo? Thoáng qua, chú hiểu ra: Thơ của Quách Tấn - nhà thơ đang phục vụ cho "chế độ ngụy quyền miền Nam". Bỗng chú nghĩ ra cách để giúp bạn. Chú năn nỉ mượn tập thơ về nhà xem. Cả đêm hôm đó, chú thức trắng để chép sao y bản chính, rồi vui vẻ đem tặng cho bác Quách Tạo. Bác Tạo cầm tập thơ của anh mừng khôn xiết. Bác mang đến khoe với ba tôi. Hai người cùng chui vào buồng, thận trọng lật từng trang xem; vì nghe nói, tập thơ có 7 bài khóc con chết trận. Sợ nội dung bôi nhọ chế độ XHCN miền Bắc, làm liên lụy đến những người có quan hệ thân thích đang sống ở miền Bắc. Song, đọc đến trang cuối, hai người thở phào nhẹ nhõm. Bài thơ nào trong đó cũng toát lên lòng yêu nước, yêu dân tộc. Bác Tấn chỉ diễn tả tâm trạng của người cha mất con: "Ân hận vì đã trót sinh con trai trong thời vô đạo/ Cầm súng không biết phục vụ cho ai…". 

Ngày tôi lấy chồng, ba tôi mượn hội trường Hội Văn nghệ Việt Nam ở 51 Trần Hưng Đạo. Bạn của ba đến dự có các chú: Nguyễn Đình, Trinh Đường, Tế Hanh, vợ chồng chú Nguyễn Thành Long, vợ chồng chú Phạm Hổ, vợ chồng chú Vương Linh, bác Khương Hữu Dụng, vợ chồng bác Minh Vĩ… và một số nhà thơ trẻ cùng cơ quan ba đến chia vui.

Bạn bè, cơ quan tôi ở xa nên chỉ cử đại diện. Trong bữa tiệc, vì nghe nói toàn nhà văn, nhà thơ, và có mặt 2 vị Anh hùng Lao động (một là anh Hồ Giáo) nên không ai dám phát biểu "múa rìu qua mắt thợ". Thấy vậy, tôi tự cứu mình bằng cách hát tặng ngày vui của mình bài hát "Mẹ ơi con muốn lấy chồng", nhạc - lời Indonesia. Bài hát có đoạn: "Em đã yêu một anh chàng trong cuộc vui này. Chàng thật xinh trai, nước da chàng ngăm ngăm đen. Càng nhìn càng yêu, nhưng cố nén trong lòng… Em nói với mẹ chính con cũng muốn lấy chồng, để dự đám cưới thấy vui là vui trong lòng. Mẹ ơi! Thế đến bao giờ con lấy chồng, chỉ sợ có ai đón biết mình muốn lấy chồng!".

Mấy hôm sau chú Nguyễn Đình đến nhà, thấy tôi còn ở đó, chú nhìn tôi vẻ hóm hỉnh, rồi như reo lên: "A! Nhà Yến Lan có cô con gái rất dũng cảm trên phương diện tình yêu mà bấy lâu nay chẳng ai ngờ!". Sau câu nói đùa của chú, không chỉ tôi mà những ai có mặt lúc ấy đều đớ người, nghệt mặt ra, chẳng hiểu mô tê chi. Chú lại nói tiếp: "Con Bích nhà anh khá thật! Khá dũng cảm! Khá mạnh mẽ, khá kiên cường! Từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ, có lẽ lần đầu tiên tôi thấy cô dâu tự hát tặng cho mình. Mà dũng cảm ở chỗ là dám tuyên bố với cả Hội Nhà văn Việt Nam, rằng: "Mẹ ơi! con muốn lấy chồng". Chà chà! Quá dũng cảm…!".  Chú vừa nhìn tôi, vừa tặc tặc lưỡi ra điều khâm phục hết cỡ. Tới lúc này mọi người mới vỡ nhẽ. Ba má tôi cười hịch hịch, còn tôi thì thẹn nóng cả mặt.

Chuyện hát tặng cho ngày vui của mình chỉ hiếm ở thời đó, chứ giờ thì không còn lạ với ai nữa rồi!

Đấy, chú Nguyễn Đình là người như thế, sao tôi có thể quên được nhỉ

Lâm Bích Thuỷ
.
.