Giáo sư, nhạc sĩ Trần Văn Khê: Suốt đời là "tài tử"

Thứ Năm, 19/09/2013, 08:00
Hơn 30 năm làm giảng viên dạy nhạc ở Đại học Sorbone của Pháp, cộng cả thời gian tính từ lúc mới sang, ông đã định cư tại đất nước của tháp Eiffel hơn nửa thế kỷ, đã trải qua không ít thăng trầm vất vả. Nhưng những gian lao đã không làm mòn đi tình yêu với âm nhạc dân tộc của người thanh niên Việt Nam trên đất Pháp. Ông miệt mài làm việc, miệt mài kiếm sống chỉ với một ý nghĩ, làm sao có đủ tiền để được yên tâm học tập, nghiên cứu âm nhạc và thực hiện sứ mệnh truyền bá âm nhạc dân tộc ra khắp thế giới...

Gần 10 năm trở lại đây, Giáo sư - nhạc sĩ Trần Văn Khê đã trở về ở hẳn Việt Nam mà không quay lại Pháp. Sang tuổi 94, sức khỏe của ông đã giảm sút đáng kể, phải ngồi xe lăn, thính lực cũng kém. Trong căn phòng tiếp khách rộng thênh thang, những chiếc đàn kìm (đàn nguyệt), đàn cò (đàn nhị), đàn bầu, đàn gáo (hồ cầm) đã được treo nghiêm ngắn lên tường bởi chủ nhân của chúng nhiều năm nay đã không thể so dây, bấm phím được nữa. Bệnh khớp đã làm đôi tay không còn tuân theo ý muốn của ông. Trần Văn Khê vốn là sinh viên Trường Đại học Y Hà Nội những năm 40 của thế kỷ trước. Khi nạn đói xảy ra trên cả nước, sốt ruột trước tình trạng người chết đói la liệt, nên mặc dù lúc đó đang là sinh viên năm thứ 3, ông vẫn quyết định bỏ học trở về miền Nam, thành lập gánh hát rong kiếm tiền mua thức ăn phân phát cho người nghèo. Năm 29 tuổi, sau khi bán cây đàn piano được một ít tiền, ông mua vé tàu qua Pháp tìm cơ hội học tập và làm việc. Tại đây, ông làm đủ thứ nghề: dịch văn bản luật, lồng tiếng cho phim, đóng phim, đàn hát tại các nhà hàng để kiếm sống. Mãi sau này, bị nhiễm lao nặng, phải nằm viện suốt hơn 3 năm, ông mới ngẫm nghĩ về sự gắn bó với lĩnh vực nghệ thuật dân tộc mà ông được nuôi dưỡng từ thơ bé, để rồi quyết định chọn đó làm hướng đi, sự nghiệp của đời mình.

Những ngày nằm viện, đã có lúc ông tuyệt vọng khi ngày nọ tháng kia phải giam mình giữa bốn bức tường trắng. Ở đó ông vẫn có đủ mọi thứ, chỉ không có sự tự do giản dị của một người khỏe mạnh. Bao nhiêu mơ ước và cơ hội đều lặng lẽ trôi đi. Ngắm cảnh hoa nở, hoa tàn, lá rụng, từ xuân sang hè, hè sang thu bên ngoài cửa sổ phòng bệnh, không biết bao giờ được ra viện, ông đâm chán nản, mất tinh thần, gần như vô vọng. Ông viết:

Chim không hót, hoa không cười, người không hy vọng
Bốn tường vôi trắng xóa một màu trăng

Nhưng rồi ông thấy, nếu mình cứ buồn như vậy thì bệnh tình cũng không khỏi mà cuộc đời càng thêm đen tối. Ông bèn viết thêm mấy câu :

Nhưng ta phải cố vui, vui để cho tiếng cười át lên cả tiếng khóc
Đời sẽ được xinh tươi.

Đó là năm 1952. Khi ấy, Giáo sư Trần Văn Khê 31 tuổi. 

Hơn 30 năm làm giảng viên dạy nhạc ở Đại học Sorbone của Pháp, cộng cả thời gian tính từ lúc mới sang, ông đã định cư tại đất nước của tháp Eiffel hơn nửa thế kỷ, đã trải qua không ít thăng trầm vất vả. Nhưng những gian lao đã không làm mòn đi tình yêu với âm nhạc dân tộc của người thanh niên Việt Nam trên đất Pháp. Ông miệt mài làm việc, miệt mài kiếm sống chỉ với một ý nghĩ, làm sao có đủ tiền để được yên tâm học tập, nghiên cứu âm nhạc và thực hiện sứ mệnh truyền bá âm nhạc dân tộc ra khắp thế giới. Trên bàn làm việc của mình, ông thường để câu châm ngôn: "Cố làm sao để hôm nay hơn ngày hôm qua và ngày mai sẽ hơn ngày hôm nay". Giản dị thôi, chỉ cần lấy cuốn từ điển ra, học thêm dăm, sáu từ mới, thế là đã biết hơn ngày hôm qua một chút rồi.

Từ những ngày đó, tình cảm gia đình giữa Giáo sư Trần Văn Khê và bà xã đã có những trục trặc và rạn nứt. Người vợ của ông luôn mong muốn có một người chồng mẫu mực theo quan niệm truyền thống nên đã không chấp nhận việc ông luôn muốn vươn ra bên ngoài, tự nguyện gắn mình với sứ mệnh truyền bá âm nhạc dân tộc ra thế giới. Cuộc chia tay của hai người cũng chỉ vì những khác biệt quá sâu sắc trong quan điểm sống.

Ông vốn sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống đờn ca tài tử,  từ nhỏ đã quen những hoạt động đờn ca tài tử rất sinh động trong không gian diễn xướng sơ khai của nó ở vùng sông nước Nam Bộ. Cảm nhận từ trong máu, ông phát hiện ra: người xưa "chơi đờn ca tài tử" chứ không ai nói "hát đờn ca tài tử" hay "biểu diễn đờn ca tài tử". Chính cái sự "chơi" đó đã khiến họ thoải mái tung tẩy ngón đàn, tự do biến báo, thách thức các nhịp, phách bổng trầm để người đàn cũng cùng phải nhọc công ứng biến. Càng học nhiều, càng nghiên cứu sâu, ông càng thấy buồn vì cái "nghịch ngợm trong ngón đàn", cái phóng túng và ngẫu hứng của lối đàn, ca của đờn ca tài tử xưa giờ đã hoàn toàn biến mất. Và ông tự giao cho mình cái sứ mệnh phải làm sống lại nó.

Giáo sư Trần Văn Khê khẳng định, đàn kìm (đàn nguyệt, có 2 dây) là cây đàn quan trọng bậc nhất. Nó có vai trò giữ nhịp song loan và là nhạc khí chủ đạo dẫn dắt các nhạc khí khác và cả lời ca của người tài tử. Sự xuất hiện của cây đàn ghi ta phím lõm, cải biên từ cây đàn ghi ta phương Tây đã làm phong phú thêm cho dàn nhạc. Trần Văn Khê cũng cảnh báo về việc người ta đang lạm dụng cây đàn này, nhất là khi có lúc, có người còn lấy cây đàn ghi ta phím lõm làm nhạc khí chủ đạo dẫn dắt dàn nhạc đờn ca tài tử. Ông lo ngại điều đó sẽ làm biến chất âm sắc cổ truyền.

Uyên thâm trong nghề "chơi", Giáo sư Trần Văn Khê cho rằng cách dạy dỗ, truyền thụ đờn ca tài tử hiện nay đã sai lệch và không có hiệu quả, quá thiên về kỹ thuật mà ngày càng xa khái niệm nghệ thuật. Kỹ thuật chỉ khiến người ta thán phục chứ không thể làm người ta xúc động như nghệ thuật. Cách thức đào tạo hiện nay chủ yếu là theo lối sư phạm, tức là truyền dạy kỹ thuật, áp dụng các mô hình lý thuyết phương Tây vào giảng dạy.  Cách này chỉ cốt làm sao cho người học phản ứng sao cho nhanh, cho tinh mà không phát huy được tính nghệ thuật vốn dĩ được thẩm thấu, chắt lọc và phát huy từ trong trái tim người dạy, người học.

Nổi danh trên đất Pháp nhưng Giáo sư Trần Văn Khê luôn day dứt và cháy bỏng mơ ước một ngày nào đó được trở về Việt Nam, dạy cho các em sinh viên người Việt, dạy bằng tiếng Việt về âm nhạc dân tộc truyền thống của người Việt. Mơ ước đó của ông chỉ thực sự trở thành hiện thực vào năm 1995 khi Trường Đại học Hùng Vương (Tp HCM) quy định thêm một loại chứng chỉ cho ngành hướng dẫn viên du lịch có liên quan tới âm nhạc dân tộc. Rất đông đảo các sinh viên hồi đó từng được nghe Giáo sư Trần Văn Khê giảng bài đã bị chinh phục hoàn toàn. Ông không chỉ dạy kiến thức âm nhạc mà còn dạy lẽ sống, dạy cho các em hiểu thấu cái đạo làm người. Giáo sư Trần Văn Khê vẫn nhớ như in bức thư của một sinh viên Trường Đại học Hùng Vương gửi ông sau khi tham gia lớp học âm nhạc dân tộc do ông giảng dạy. Trong thư, nữ sinh viên đó viết rằng, bao lâu nay, với cách giảng dạy và phổ biến âm nhạc dân tộc trên các phương tiện truyền thông, trong lòng bạn không có chút tình cảm nào với các nhạc cụ cũng như những khúc thức của âm nhạc dân tộc. Đã có lúc cô nghĩ, sẽ phải bỏ học dở chừng vì không muốn phải học môn này. Thật kinh ngạc, sau những buổi nghe Giáo sư Trần Văn Khê giảng trên lớp, cô đã cảm thấy tình yêu âm nhạc dân tộc như đang chảy trong huyết quản. Cô cảm nhận được vẻ đẹp tuyệt vời, sâu lắng của các giai điệu âm nhạc truyền thống. Cô hứa sau này, khi có con, cô sẽ ru con bằng những bài dân ca truyền thống, sẽ là người dạy cho con mình tình yêu với những thanh âm, những lời hát mộc mạc, thấm đẫm ân tình. Với Giáo sư Trần Văn Khê, những bức thư như thế chính là phần thưởng lớn nhất mà ông nhận được sau hàng loạt cống hiến hết mình cho sự nghiệp nghiên cứu, truyền bá âm nhạc dân tộc.

Tuổi tác khiến Giáo sư Trần Văn Khê đã không còn cầm được đàn để tự mình thả hồn trong những làn điệu đờn ca tài tử. Đó là nỗi niềm thực sự thống khổ với ông. Nhưng chưa bao giờ ông chịu rời xa âm nhạc dân tộc. Hằng ngày, ông lão tóc bạc trắng bị đau khớp phải ngồi trên xe lăn, giữa một gian phòng rộng chỉ có sách và các nhạc cụ vẫn thả hồn theo tiếng nhạc dìu dặt, luyến láy và ắp đầy tâm trạng. Ngoài kia Sài Gòn đang vào mùa mưa, tiếng mưa ào ạt, xối xả. Có gì đó thật tê tái, cô đơn...

Với Giáo sư Trần Văn Khê, ông luôn luôn vui với những gì mình đã có, và không bao giờ buồn vì những gì chưa có hay không bao giờ có. Cũng như ông rất thích uống rượu, nhưng không bao giờ để mình say. Với ông, lý trí luôn ở bên để kiểm soát tình cảm của mình.

Mỗi sáng, người trí thức ấy vẫn dậy từ năm rưỡi sáng với nhịp độ sinh hoạt và làm việc gần như không thay đổi. Ngày nối ngày vẫn là những công việc, những dự án nghiên cứu và truyền bá âm nhạc, những cuộc trò chuyện, tiếp xúc với học trò, bạn bè và khách khứa trong, ngoài nước. Cuộc gặp gỡ của tôi với giáo sư hôm đó rốt cuộc cũng phải tạm gián đoạn vì một đoàn khách nước ngoài muốn tới nghe ông trò chuyện đôi điều về văn hóa Việt Nam. Họ sôi nổi quần tụ quanh giáo sư, chăm chú nghe ông nói như nuốt từng lời, từng chữ. Và tôi cảm nhận được niềm vui ngân nga trong ánh mắt của một con người suốt một đời đắm đuối vì nghệ thuật…

Dương Kim Thoa
.
.