Chuyện của nhà thơ “Thưa mẹ, trái tim”

Thứ Năm, 07/09/2006, 10:30

Khi mới 25 tuổi Trần Quang Long đã có những câu thơ gan ruột, nổ vang như súng trận: “Con sẽ vót nhọn thơ thành chông/ Xuyên vào gan lũ giặc/ Con sẽ mài thơ như kiếm sắc/ Chặt đầu văn nghệ tay sai.../ nếu thơ con bất lực/ Con xin nguyện trọn đời/ Dùng chính quả tim làm trái phá/ Sống chết một lần thôi! ”

Thơ Trần Quang Long ám ảnh tôi từ đó. Những năm sau này ở Huế, tôi luôn tìm hiểu về đời và thơ Trần Quang Long để yêu thêm nhà thơ tài hoa, mệnh yểu này. Trần Quang Long làm thơ từ năm 17 tuổi. Những bài thơ “học trò” lúc ấy đã chứng tỏ khả năng thơ tinh tế bẩm sinh của Long: “Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón”... hay “Bước nhẹ nghe em kẻo động vỡ tơ chiều... ” (Nghiêng nón). Đó là bài thơ được chép vào sổ tay của rất nhiều thế hệ nữ sinh Đồng Khánh.

Năm 1962, Long vào lớp Việt văn, Đại học Sư phạm Huế. Thời đó, sinh viên sư phạm là danh giá nhất, được cấp học bổng mỗi tháng 2000 đồng (tiền Nguỵ cũ) trong khi ăn cơm tháng rất ngon tại nhà hàng Âm Phủ chỉ hết 300 đồng. Thế mà chàng thi sĩ tài hoa này chẳng mấy chí thú học hành, chỉ thích làm thơ và tranh luận với thầy về chuyện thế sự.

Từ khi yêu Tôn Nữ Quỳnh Như, Trần Quang Long trút tất cả sự đa tình, say đắm yêu đương cho người yêu. Anh đi dạy học ở Cần Thơ, chị ở Sài Gòn, tuần nào cũng đi lại thăm nhau, thế  mà tuần nào Long cũng viết thư cho Ngọc (tên gọi ở nhà của Quỳnh Như). Đến hôm nay, gia đình còn lưu giữ hơn 50 bức thư tình Long viết cho Ngọc, có bức dài đến 5, 6 trang giấy A4.

Những năm 1960 – 1962, trong thơ tình học trò của Trần Quang Long đã xuất hiện những hình ảnh nhận chân thời cuộc “ừ thôi em ở lại? Còn gì nữa mà mong/ Quê hương mình điêu đứng/ Nhạt phai những má hồng...”. Học ở Đại học mới năm đầu Long đã thể hiện ý thức phản kháng, anh đứng đầu một nhóm “nói ngược”, đã đăng đàn diễn thuyết cho cả trường đại học nghe về Kinh Viên Giác được giáo sư Trần Thái Đỉnh khen ngợi hết lời...”.

Cuối năm 1965, tốt nghiệp đại học, Trần Quang Long được phân công vào dạy học tại Trường Trung học Cường Để, Quy Nhơn. Tại đây, anh vừa dạy học vừa là ngòi nổ của phong trào đấu tranh của sinh viên, học sinh Quy Nhơn. Anh viết biểu ngữ chống chiến tranh, kêu gọi hoà bình, tổ chức cho cả ngàn sinh viên học sinh đi biểu tình chống Mỹ Nguỵ và thành lập  “Lực lượng bảo vệ dân tộc Bình Định” do anh làm chủ tịch.

Những bài thơ đã hun nóng ý thức dân tộc của tuổi trẻ. Cuộc đấu tranh của tuổi trẻ Quy Nhơn bị đàn áp dã man. Trần Quang Long bị chúng dùng báng súng đánh gãy chân, té xỉu. Đêm đó, 119 thầy giáo và học sinh Quy Nhơn bị bắt trong đó có thầy giáo trẻ Trần Quang Long.

Trước khi vào tù, một học sinh trường Bồ Đề đã cởi chiếc áo trắng đầy máu đang mặc trên người đưa cho thầy Long đề bài thơ ca ngợi tinh thần đấu tranh của học sinh Quy Nhơn. Chiếc áo có bài thơ đẫm máu chuyền tay nhau, 119 học sinh và giáo viên đều ký tên xung quanh bài thơ của thầy Long. Trần Quang Long bị đày đi lên nhốt tại Quân y viện Pleiku. Đây là lần thứ tư Long bị địch bắt. Khi Long lành chân, gia đình lại một lần nữa bỏ tiền “vận động” cho Long ra tù và được đi dạy ở Cần Thơ.

Có lẽ ngụy quyền muốn đưa Long vào Cần Thơ để cách ly anh với phong trào đấu tranh của tuổi trẻ Huế, Quy Nhơn. Nhưng vào đến Cần Thơ, ngay lập tức, Long nối đường dây hoạt động với phong trào. Anh trở thành Chủ tịch Hội sinh viên sáng tác thuộc Tổng hội sinh viên Sài Gòn. Anh tuyển chọn tập thơ sinh viên “Tiếng hát những người đi tới” để cổ vũ đấu tranh.

Hình như linh cảm thấy thời gian của mình đang ngắn dần phía trước, nên anh muốn trút tâm hồn, trí lực của mình trên từng trang viết. Anh viết ngày viết đêm trong hơn 1 năm mà hàng trăm bài thơ ra đời trong đó có nhiều bài nổi tiếng như “Thưa mẹ, trái tim”, “Lớn lên không ngừng”, “Nụ cười chiến thắng”... “Nụ cười chiến thắng” là bài thơ dài 60 câu, viết về chị Võ Thị Thắng: “Mang trong tim mình ngọn lửa trung kiên/ Chị thắp sáng nụ cười chiến thắng”. Chính tứ thơ “Nụ cười chiến thắng” của anh đã trở thành hình tượng nổi tiếng của tuổi trẻ miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, vang vọng cho đến ngày nay.

Các tập thơ “Vực thẳm và hy vọng”; kịch thơ “Tiếng gọi Lam Sơn” ba hồi với hơn 1000 câu thơ; tập truyện ngắn “Bông cúc vàng” liên tục được Nhà xuất bản Trình bày và Tổng hội sinh viên Sài Gòn ấn hành năm 1967 đã đến với bạn đọc tuổi trẻ Sài Gòn.

Thời kỳ này, Trần Quang Long kết hôn với Tôn Nữ Quỳnh Như. Quỳnh Như là con của giáo sư Tôn Thất Dương Ky – Giáo sư đại học Văn khoa Sài Gòn, một gia đình rất có danh tiếng thời đó. Trần Quang Long dạy học ở Cần Thơ, Quỳnh Như thì ở Sài Gòn, xa nhau gần 200 cây số. Xa vợ, lá thư nào của Long cũng thấm dẫm yêu thương và trách nhiệm. Giữa năm 1967, Quỳnh Như có thai, Trần Quang Long vui lắm, viết thư gửi vợ: “mấy hôm nay lòng anh náo nức vui đến độ muốn hét to cho vỡ toang lồng ngực ra... Anh tưởng tượng – trời ơi anh tưởng tượng em sẽ đem đến cho cuộc đời hai chúng mình một vì sao...”. Anh còn dặn, nếu sinh con trai thì đặt tên là Xuân Thắng, con gái tên Ngọc Chân. Thư riêng, nhưng Long cũng bộc bạch hết những suy nghĩ của mình về việc chung: “... nhưng vì nghĩ tới bạn bè anh em, những người thân yêu của mình đang chịu hy sinh quá nhiều, mình lẽ nào chỉ bận tâm lo lắng cho cá nhân...” (thư ngày 19/11/1967).

Mùa xuân 1968, Mặt trận liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hoà bình miền Nam Việt Nam ra đời. Trần Quang Long là Uỷ viên Mặt trận liên minh dân tộc dân chủ sài Gòn. Anh xông xáo cùng nhiều bạn bè tổ chức lực lượng đấu tranh. Địch phản công, không bắt được Trần Quang Long, chúng bắt Quỳnh Như đang mang thai vào tù!

Thoát về Cần Thơ, rồi vào chiến khu, Trần Quang Long viết lá thư cuối cùng cho vợ vào ngày 26/2/1968: “Em Ngọc... Anh ra đi lúc này, giữa lúc em đang sắp tới ngày khai hoa nở nhuỵ, anh thật chua xót vô cùng... Tình trạng cực khổ của chúng mình là tình trạng chung, nếu đem so sánh với sự hy sinh anh dũng của bao nhiêu người khác thật chưa đáng vào đâu... Anh hy vọng em sẽ thông cảm mà tha thứ cho anh. Anh thật chẳng xứng đáng là một người chồng, người cha hiểu theo nghĩa bình thường. Nhưng thời đại và hoàn cảnh chúng ta sống cũng không bình thường. Anh tin “Xuân Thắng” sẽ về một ngày rất gần ”.

Ở Chiến khu, anh làm thơ thương nhớ vợ đang ở tù: “Có đêm nào không nhớ/ Có ngày nào không thương... Ngày hai lần cơm hẩm/  Chắc em chừ xanh xao...”.

Tài năng đang ở độ sung mãn thì Trần Quang Long hy sinh cùng với một số đồng chí tại Bộ chỉ huy Miền (R) ở Tây Ninh ngày 11/10/1968 do một trận bom B52 của giặc Mỹ rơi trúng miệng hầm! Trần Quang Long ra đi khi chưa biết Tổ quốc đã thống nhất sau đại thắng mùa xuân năm 1975. Anh cũng chưa biết người vợ Quỳnh Như thương yêu của mình đã sinh con trai ngay trong tù, đặt tên là Trần Xuân Thắng, đúng như ước vọng của anh.

Quỳnh Như một năm sau mới hay tin chồng hy sinh. Chị đã khóc, đề sau một tập thơ của anh: “Một năm sau em mới biết mình đã chết. Em không hiểu một năm vừa qua em sống bằng nguồn năng lượng nào?” Anh cũng chưa hề biết chị Quỳnh Như ở vậy nuôi con cho đến năm 1978, chị mất vì bệnh gan. Con trai Trần Xuân Thắng của anh năm nay 36 tuổi, đã có  vợ và hai con gái...

Ngô Minh
.
.