Cho đời một tiếng chiêng

Thứ Sáu, 15/03/2019, 08:24
Neo níu nguồn cội, ý niệm đó đối với Y Phôn KSơr, Krajan Dick, Linh Nga Niê Kdam, Krajan Plin..., không đơn thuần là khẳng định sự tồn tại cái thần thức văn hóa Tây Nguyên trong đời sống đương đại, mà quan trọng hơn để tri nhận cái vẻ đẹp mang cốt cách quê xứ và từ đấy tìm ra con đường đi phù hợp cho nền văn hóa ấy trong dòng chảy thời gian...


Âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên là tiếng nói nữ quyền của người Tây Nguyên. Tiếng nói ấy khi thăng khi trầm nhưng chưa bao giờ mất đi trong đời sống thực tại lẫn trong tâm thức cộng đồng người Tây Nguyên. Nó vẫn luôn được thẩm thấu, tích bồi để rồi ngày một dày thêm bởi chính những người con Tây Nguyên nặng lòng với các giá trị văn hóa cơ bản đã trở thành căn tính của cộng đồng các dân tộc bản địa Tây Nguyên, căn tính cố kết cộng đồng.

Mới 8 tuổi, cậu bé Y Phôn KSơr, người sau này là nhạc sĩ Y Phôn KSơr, tác giả của những ca khúc nổi tiếng: Chim phí bay về cội nguồn, Đôi chân trần, Đi tìm lời ru Nữ thần mặt trời, Chiếc gùi... đã thuộc nằm lòng các điệu chiêng, bài chiêng. Chỉ cần nghe qua tiếng chiêng là Y Phôn KSơr phân biệt được đó là tiếng chiêng của dân tộc nào và biết điệu chiêng đó đang nói về điều gì.

“Thường thì chiêng Jrai, chiêng Bana tâm sự bằng giai điệu, còn chiêng Êđê, chiêng MNông và chiêng KHo... lại tâm sự bằng tiết tấu. Tùy theo từng dân tộc, từng buôn, bon, plei... mà có sự sắp xếp, định biên thành các dàn nhạc khác nhau. Cả lối đánh, kỹ thuật đánh mỗi dân tộc, mỗi làng buôn cũng mỗi khác. Thậm chí, buôn này cách buôn kia chỉ 1 cây số thôi là cách chơi chiêng đã khác nhau rồi”, nhạc sĩ Y Phôn KSơr chia sẻ.

Nhà Tây Nguyên học Linh Nga Niê Kdam (bên trái) chia sẻ cùng tác giả về văn hóa Tây Nguyên.

Theo nhạc sĩ Y Phôn KSơr, sự khác biệt đó làm nên tính đa dạng của âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên. Nếu cồng chiêng KHo, Mạ ở Lâm Đồng và cồng chiêng MNông ở Đắk Nông thiết lập thang 3 âm (bộ chiêng 3 chiếc) hoặc thang 6 âm (bộ chiêng 6 chiếc) cho mỗi bộ chiêng, thì cồng chiêng Bana và Jrai thiết lập thang 4 âm, thang 5 âm, thang 8 âm và thang trên 8 âm.

So với âm nhạc ngũ cung phương Tây, quãng 3 và quãng 5 trong cồng chiêng KHo, Mạ, MNông giữa trưởng và thứ không rõ ràng, còn các quãng 8, quãng 5 và quãng 4 của cồng chiêng Bana, Jrai thì hoàn toàn đúng với âm nhạc ngũ cung phương Tây.

Còn về cách thức tấu chiêng thì người MNông, Mạ, KHo... sử dụng nắm tay đấm để tấu chiêng, trong khi người Jrai, Bana, Êđê... tấu chiêng và cồng (chiêng có núm) bằng dùi. Một sự khác biệt cơ bản nữa, các dân tộc Mạ, KHo ở Lâm Đồng và dân tộc MNông ở Đắk Nông chủ yếu tấu chiêng, rất ít khi tấu cồng, các dân tộc khác ở Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk thường tấu cả cồng lẫn chiêng, kèm theo một số nhạc cụ tre nứa.

Qua nhiều năm lăn lộn ở các làng buôn để tìm sự thật các điệu chiêng của các dân tộc Êđê, Bana, Jrai, Chăm HRoi, MNông, Xêđăng, KHo, Mạ... thuộc địa bàn các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Thuận, Ninh Thuận, Phú Yên, Lâm Đồng, Gia Lai và Kon Tum là gì và rồi cuối cùng nhạc sĩ Y Phôn KSơr đã nhận ra, âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên có một điểm chung khao khát, một ý thức trách nhiệm trở về cội nguồn, gắn kết trong ngữ hệ mẫu quyền.

“Trở về nguồn cội là một khao khát. Mà việc các thành viên trong dàn cồng chiêng trong lúc diễn tấu đi từ phải qua trái, ngược chiều kim đồng hồ, đã nói lên ý nghĩa ngược thời gian trở về quá khứ, tức tìm lại cội nguồn. Tôi đang đi trên con đường ngày xưa ông bà đi và gom nhặt từng giá trị văn hóa mà ông bà đã để lại trên con đường ấy. Tôi làm điều này từ trái tim, từ dòng máu, chỉ mong sau này mình chết đi thì để lại cho con cháu, cho đời một tiếng chiêng”, nhạc sĩ Y Phôn KSơr tâm sự.

Trong con người nhạc sĩ Y Phôn KSơr, Tây Nguyên hơn cả một tình yêu, nó là máu thịt, cũng như cồng chiêng là máu thịt. Thế nên, ngoài thời gian công tác tại Đoàn Ca múa nhạc dân tộc Đắk Lắk, nhạc sĩ Y Phôn KSơr còn biên soạn giáo trình, tham gia công tác giảng dạy cồng chiêng và các loại nhạc cụ liên quan đến cồng chiêng như bộ nhạc cụ gõ bằng tre nứa: Trưng (âm cao), Trưng (âm trầm), Đinh Păh, Ching Kram; bộ nhạc cụ tre nứa màu sắc: Ring reo, Bộ lắc ống tre, Thanh tre; bộ nhạc cụ hơi: Đinh Buốt (sáo), Đinh Năm (kèn 6 ống), Kki Păh (tù và), Tak Tar (kèn một ống), Gôch (đàn môi), Đinh Tút (sáo dàn) và bộ nhạc dây: Đàn Bố (đàn 2 dây), Đàn Goong (đàn 6 dây)... cho thế hệ trẻ Tây Nguyên. Tất nhiên, với người nhạc sĩ này, không thể thiếu những chuyến trở về buôn làng để sưu tầm và tìm cảm xúc sáng tác nhạc. “Những ca khúc do Y Phôn KSơr sáng tác có sử dụng giai điệu, tiết tấu của dân nhạc Tây Nguyên rất thành công. Có những bài hát đã vượt ra khỏi Tây Nguyên”, nhà Tây Nguyên học Linh Nga Niê Kdam nhận xét.

Chưa dừng lại ở đó, nhạc sĩ Y Phôn KSơr đang ấp ủ một hướng đi mới khi kết hợp 3 cụm chiêng: chiêng KHo và chiêng MNông, chiêng Jrai và chiêng Bana, chiêng Êđê và chiêng Chăm HRoi phát triển thành chromatic (âm giai nửa cung) để đánh những tác phẩm âm nhạc lớn của nước ngoài như sonate (giao hưởng) chẳng hạn. “Ở giữa mỗi phân đoạn, tôi dự định sử dụng một bài hát hoặc một câu nhạc dẫn nhằm tạo sắc thái mới cho âm nhạc cồng chiêng. Sau cùng, tôi sử dụng âm thanh cao vút của cồng chiêng Êđê làm cao trào”, nhạc sĩ Y Phôn KSơr nói.

Có cùng tâm cảm như nhạc sĩ Y Phôn KSơr, tác giả của một số ca khúc được mến mộ: Nồng nàn cao nguyên, Cánh sóng và chuyện tình, Men tình xuân, Gọi gió..., nhạc sĩ Krajan Dick, lại yêu Tây Nguyên theo cách của mình. 

Từ vốn văn hóa bản địa KHo, ông biến nó thành nguồn cảm hứng, thành tư liệu, thành bối cảnh cho việc sáng tạo các ý tưởng tạo lập các sản phẩm văn hóa du lịch. Nhạc sĩ Krajan Dick thành lập các đội cồng chiêng ngay tại nơi mình sinh (núi Lang Biang, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng) để góp phần truyền bá những nét đặc trưng nơi âm nhạc cồng chiêng, kết hợp văn hóa ẩm thực, cùng tập tục bản địa KHo đến với du khách trong và ngoài nước. Nhạc sĩ Krajan Dick còn là nhà khảo cứu văn hóa, một nghệ nhân cồng chiêng. Những gì nhạc sĩ Krajan Dick làm cho âm nhạc, cho văn hóa truyền thống Tây Nguyên đã được mọi người biết đến và ghi nhận.

Nhạc sĩ Y Phôn KSơr, Phó Trưởng Đoàn ca múa nhạc dân tộc tỉnh Đắk Lắk.

Cũng kinh doanh vốn văn hóa truyền thống KHo ở chân núi Lang Biang, nhưng cách làm của nhạc sĩ Krajan Plin rất trẻ trung và hiện đại. Tây Nguyên của Krajan Plin là một Tây Nguyên mới, mới trong phương cách Krajan Plin sử dụng cồng chiêng vào hoạt động du lịch văn hóa, khi biết mở rộng biên độ giao lưu với thế giới bên ngoài, biết ứng dụng tiện nghi công nghệ hiện đại vào đời sống biểu diễn.

Tuy vậy, Tây Nguyên trong thẳm sâu con người Krajan Plin vẫn là một Tây Nguyên chân mộc, thô ráp, xa xăm. Chất điệu đó được Krajan Plin thể hiện rõ trong ca khúc: Ka Bing ơi, Giữ ấm bếp hồng... Trong khi đó, nhà Tây Nguyên học Linh Nga Niê Kdam lại miệt mài với những công trình khảo cứu, sưu tầm về các điệu ru, những câu chuyện cổ, tri thức dân gian về đời sống, về nghệ thuật, về văn hóa, bên cạnh việc giải nghĩa các bài chiêng, điệu chiêng, cùng những tham luận khoa học sắc sảo.

Bằng chính sự hiểu biết và trách nhiệm của mình, nhà Tây Nguyên học Linh Nga Niê Kdam đã góp phần tích cực vào việc gìn giữ và rồi đưa các giá trị văn hóa bản địa Tây Nguyên trở về sống giữa cộng đồng.

Neo níu nguồn cội, ý niệm đó đối với Y Phôn KSơr, Krajan Dick, Linh Nga Niê Kdam, Krajan Plin..., không đơn thuần là khẳng định sự tồn tại cái thần thức văn hóa Tây Nguyên trong đời sống đương đại, mà quan trọng hơn để tri nhận cái vẻ đẹp mang cốt cách quê xứ và từ đấy tìm ra con đường đi phù hợp cho nền văn hóa ấy trong dòng chảy thời gian. Bởi thế, việc ấp ủ phát triển âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên thành âm giai nửa cung để đánh những tác phẩm âm nhạc lớn thế giới của Y Phôn KSơr, hay giăng giăng trong âm nhạc của Y Phôn KSơr, Krajan Plin, Krajan Dick, hoặc trong các công trình khảo cứu của Linh Nga Niê Kdam luôn luôn nở sáng tâm thức trở về neo níu nguồn cội. Họ, những người con Tây Nguyên, đang nỗ lực gìn giữ và tìm cách phát triển các giá trị quý báu nhất mà cộng đồng dân tộc Tây Nguyên đã dày công tạo dựng với tâm niệm - cho đời một tiếng chiêng - như cách nhạc sĩ Y Phôn KSơr tự nhận.

Trịnh Chu
.
.