Câu chuyện cảm động về 2 bài thơ viết trên đường ra trận

Thứ Bảy, 23/04/2016, 08:00
Cuối năm 2012, tôi được Hội Nhà văn Việt Nam cử đi dự Trại sáng tác tại TP Vũng Tàu. Trong khoảng thời gian ở Trại, một chiều cuối tuần, được nhà thơ Lưu Trọng Phú dẫn đường, tôi tìm đến thăm anh Văn Trọng, người bạn thơ thời trẻ quê Hưng Yên, tác giả bài ca dao "Gầu sòng" được giải Nhì thơ và ca dao chống Mỹ năm 1965. Thật vui mừng và cảm động với bao câu chuyện hàn huyên về quê hương, gia đình và bạn bè, về thơ ca... sau hơn 40 năm gặp lại.

Anh Trần Bình Trọng nguyên là giáo viên cấp 2, quê ở Văn Giang, Hưng Yên. Từ những năm 1960 - 1967, với bút danh Văn Trọng, anh thường xuyên viết bài, thơ và ca dao cho các báo ở miền Bắc. Năm 1967, anh nhập ngũ vào Nam chiến đấu, rồi chuyển ngành và nghỉ hưu tại thành phố biển Vũng Tàu.

Biết tôi là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, thường xuyên viết bài cho báo Hưng Yên, Ty Văn hóa Hưng Yên và Hải Hưng từ năm 1960 đến nay nên trước khi chia tay, Văn Trọng có nhờ tôi tìm giúp 2 bài thơ anh viết trên đường ra trận và gửi lại miền Bắc cách đây trên 40 năm.

Văn Trọng tâm sự: Ngày 5/8/1964 giặc Mỹ leo thang chiến tranh ra đánh phá miền Bắc. Cả nước sôi sục khí thế chống Mỹ cứu nước. Nhiều thanh niên viết đơn bằng máu tình nguyện lên đường ra trận. Trong khí thế ấy, tháng 7 năm 1967, Văn Trọng giã từ "bảng đen phấn trắng", tạm biệt quê hương và gia đình lên đường nhập ngũ. Sau thời gian huấn luyện nghiệp vụ cấp tốc tại chân núi Tam Đảo (Vĩnh Yên), đơn vị anh được lệnh lên đường vào Nam chiến đấu. Mọi sự chuẩn bị chỉ có một buổi chiều và một đêm. Năm giờ sáng hôm sau xe đón, xuất phát.

Các chiến sĩ Quân Báo C22 E102 F308 họp mặt kỷ niệm 48 năm ngày vào Nam chiến đấu (2/68-2/2016)

Chiến sĩ quân báo  Trần Bình Trọng?(người đánh dấu số 1), tác giả bài thơ “Ra trận”.

Văn Trọng kể tiếp: Sau khi sắp xếp ba lô, súng đạn gọn gàng, anh chạy vội ra Bưu điện Vĩnh Yên gửi về cho gia đình tấm khăn len và chiếc bút máy kim tinh, có khắc hàng chữ TL ngày 22/11/1966, hai vật kỷ niệm ngày cưới của anh.  Trở về đơn vị, thấy nhiều chiến sĩ đang tập hát, ngâm thơ chuẩn bị cho đêm liên hoan văn nghệ trước lúc vào chiến trường. Những chiến sĩ khác đang ngồi nâng niu lau lại khẩu súng AK báng gấp, thép xanh bóng loáng cùng những viên đạn vàng óng không một hạt bụi. Cảnh tượng thật hào hùng và xúc động trước giờ ra trận. Và rồi trong anh, tứ thơ đã reo vang:

"Máu đã réo trong tim ta giục bước
Đạn căm thù đang nóng bỏng trên tay
Mắt rực sáng nhằm quân thù phía trước
Tổ quốc ơi, tôi đợi lệnh đi ngay!…"

Cứ thế, những câu thơ được ra đời trong cảm xúc dâng trào và bài thơ "Ra trận" (hay còn gọi là "Giá súng") được hoàn thành ngay trong buổi chiều đáng nhớ đó.

Còi tập hợp ăn cơm chiều vang lên, anh viết vội những câu thơ cuối cùng vào sổ tay. Chưa kịp đứng lên thì đồng chí chính trị viên đại đội đến hỏi: "Viết thư về nhà cho cô giáo, nên dài vậy hả?" - vợ anh là giáo viên. Anh liền đưa bài thơ vừa sáng tác xong cho chính trị viên xem. Chính trị viên vừa đi vừa đọc và gật gù: "Được lắm, rất kịp thời. Tối nay liên hoan văn nghệ, đọc bài thơ "Ra trận" này cho toàn đơn vị cùng nghe trước khi lên đường”.

Đêm liên hoan văn nghệ chia tay tại sân kho hợp tác xã, bài thơ "Ra trận" được chiến sĩ cùng đại đội diễn ngâm trước toàn đơn vị, trong đó có đoạn:

"… Đường hành quân, viết bài thơ Ra Trận
Bạn cùng nghe mừng Tổ Quốc hăm hai (22)*
Đang anh dũng trên tuyến đầu chống Mỹ
Nợ nước, thù nhà nặng gánh đôi vai……

"Người cầm súng yêu đời tha thiết nhất
Quý con người, như yêu vợ, thương cha
Nhưng Tổ quốc nếu khi cần ta chết
Chẳng ngại ngần, không một tiếng kêu ca"

Bài thơ được kết thúc bằng hai câu hào hùng như lời tuyên thệ:

"Cây súng thép với lòng yêu nước,
Xin nguyện cùng Tổ quốc hiến dâng…"

Âm vang bài thơ hòa với khúc quân hành, đưa anh cùng đơn vị vượt qua tuyến lửa khu 4 ác liệt, hướng tới chiến trường miền Nam đang đợi...

Tới đất Quảng Bình đơn vị anh xuống xe, chuẩn bị hành quân bộ, leo dốc vượt Trường Sơn sang đất bạn. Đêm cuối cùng ở huyện Bố Trạch, tổ ba người của anh được đưa đến nghỉ tại nhà đồng chí Hội trưởng Phụ nữ thôn kiêm Đội trưởng sản xuất Hợp tác xã nông nghiệp. Ngôi nhà tranh ba gian đơn sơ gia đình nhường cho các anh một gian.

Bên ánh đèn dầu lấp loáng, cụ chủ nhà tóc bạc trắng, là bố chồng chị Hội trưởng, ngồi pha ấm trà nóng cho các anh uống, vừa kể: "Các chú hành quân từ miền Bắc vào chắc là mệt lắm! Thằng con cả nhà tôi nhập ngũ năm 1965, vào "B dài' năm 1966, hai năm rồi chưa có thư về! Cô con gái thứ hai chưa kịp chồng con cũng tình nguyện đi Thanh niên xung phong, phục vụ mở đường Trường Sơn. Vợ chồng tôi ở với thằng út. Vợ nó vừa đón các chú vào nhà đó. Chồng nó là lính pháo binh cũng mới về phép, để đi B cách đây gần một tháng…".

Anh nhìn sang gian nhà bên, dưới ánh đèn dầu vặn nhỏ, một cụ bà đang ngồi ru cháu bên chiếc võng đung đưa. Em bé chừng 9, 10 tháng tuổi, nằm ngủ ngon lành trên võng, thỉnh thoảng lại giật mình khẽ khóc, mỗi khi có tiếng bom nổ và tiếng cao xạ pháo bắn lên từ phía ở phà Xuân Sơn. (Hồi đó máy bay Mỹ bắn phá bến phà này suốt ngày đêm để chặn đường chi viện vào Nam…).

Chiến tranh với biết bao chia ly, hy sinh và mất mát. Đêm đó anh thao thức không sao ngủ được và ngồi dậy lấy sổ tay viết nhanh bài thơ "Hành quân qua xóm nhỏ"

"Đường hành quân dừng chân bên xóm nhỏ
Ngôi nhà tranh, nhè nhẹ võng nôi đưa
Hàng mi dài, em bé ngủ say sưa
Thơm sữa mẹ, đôi môi hồng chúm chím
(Chắc cha em đã có lần bịn rịn
Lặng nhìn em vội khoác súng ra đi)
Bé em ơi, anh biết nói những gì?
Em mơ tiếp, anh canh đời, em cứ ngủ".

Bài thơ "Ra trận" và "Hành quân qua xóm nhỏ" được Văn Trọng cho vào một phong bì. Chiều hôm sau, gặp xe ra Bắc, anh đã gửi phong thư đó về quê, trước khi xốc ba lô vội theo kịp đội hình hành quân bộ, vượt Trường Sơn, qua đất bạn Lào, tới chiến trường Đường 9 Khe Sanh - Quảng Trị vào đầu xuân Mậu Thân, 1968.

Anh bùi ngùi kể: "Hành trang và tình cảm tôi gửi lại hậu phương, cùng gia đình thân yêu chỉ có vậy: Chiếc khăn len cùng chiếc bút máy và bài thơ "Ra trận" viết trên đường hành quân vào Nam. Tôi nghĩ thầm, chiến tranh ác liệt không biết thế nào, nếu chẳng may tôi không còn được trở về thì những thứ đó là vật kỷ niệm quý báu của đời người chiến sĩ tham gia kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, sẽ ở lại cùng quê hương, gia đình và an ủi người thân!...".

Chiến tranh kết thúc. Văn Trọng chuyển ngành đi học Luật và công tác ở Tòa án nhân dân Tối cao… Chiếc bút máy và tấm khăn len vợ anh đã nhận được, gói kỹ để bên đầu giường, làm vật kỷ niệm khi anh ở chiến trường… Duy chỉ còn hai bài thơ viết trên đường ra trận ngày ấy, không biết có về tới nơi nhận hay không? Anh rất yêu quý hai bài thơ và xem như là "đứa con tinh thần" thời chiến tranh, giờ đang ở nơi đâu, có còn hay đã mất trên đường qua tuyến lửa khu 4 của những năm 1967 - 1968?

Hòa bình đã mấy chục năm, nhưng anh chưa tìm được hai bài thơ viết trên đường ra trận ngày nào và nhờ tôi về Hưng Yên tìm lại…Câu chuyện thật xúc động. Hai bài thơ của anh không có gì lớn lao hay nổi tiếng. Nhưng đó là tình cảm chân thực, sâu nặng về tình thương yêu con người, tình yêu Tổ quốc của người chiến sĩ ngoài mặt trận. Đó là tinh thần "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Đây không chỉ là tình cảm của riêng anh mà là tinh thần, ý chí của lớp lớp thế hệ trẻ Việt Nam trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.       

Và rồi, lòng mong đợi của anh Văn Trọng được đền đáp: Tôi tìm thấy hai bài thơ nói trên của anh được in trong tập thơ ca Hưng Yên do Ty Văn hóa Hưng Yên xuất bản - ấn phẩm Mừng xuân Mậu Thân - 1968. Tôi đọc nguyên văn hai bài thơ mới tìm thấy trên những trang giấy in cũ đã ngả màu vàng, cho anh nghe. Tôi cảm nhận được anh mừng vui, nghẹn ngào qua điện thoại…

Những vần thơ chân thực, tình cảm và hào hùng của người chiến sĩ cách đây gần nửa thế kỷ vẫn còn âm vang trong lòng tôi.

Hưng Yên, Xuân 2016

Lê Hồng Thiện
.
.