Hoa bằng lăng tím

Thứ Hai, 13/07/2015, 08:00
Nắng nghiêng xế. Chiếc xe khách hăm bốn chỗ ngồi ì ạch bò lên con dốc. Gã tài xế trạc bốn chục, gương mặt đăm chiêu đang tập trung trí lực, đánh vô lăng lệch trái, ngoặt phải, lách tránh ổ gà trên mặt đường. Từ phía sau, bà chủ xe cất tiếng nhắc có khách phía trước. Gã tài xế tỏ vẻ bực bội, lẩm bẩm trách mụ chủ một điều gì đó.

Bên cây cầy trên đỉnh dốc, người đàn ông đội mũ cối, quần áo bộ đội bạc màu, chân mang dép râu lấm lem bụi đất, tay ôm chặt chiếc ba lô cũ kỹ trước ngực, tay vẫy vẫy đón xe. Đang giữa mùa hè, bầu trời miền sơn cước cao xanh đến lạ. Nắng tỏa sáng rực rỡ trên những tầng rừng xanh mênh mang. Đâu đó, tiếng nước suối rì rào lẫn tiếng chim rừng lảnh lót trong tán lá.

Xe chưa kịp dừng hẳn, gã phụ xế nhảy xuống bên gốc cây cầy, cất tiếng hỏi :

- Đi đâu hả chú ?

- Tôi về Tuy Hòa. Bao nhiêu tiền?  -  Người đàn ông cẩn trọng dò hỏi.

Nhìn người khách có chút khác biệt, lạ thường. Ba lô không mang trên lưng, mà lại ôm chặt trước ngực, chừng như sợ đánh rơi. Gã phụ xế chợt nghĩ đến giới đi tìm trầm. Thừa biết từ giờ đến tối không còn chuyến xe nào xuôi đồng bằng trên quốc lộ 25, gã tranh thủ "moi" tiền:

-  Một trăm ngàn.

Ngạc nhiên trước mức giá gấp đôi bình thường, người khách hỏi lại:

-  Sao đắt dữ vậy?

- Tôi lạ gì dân tìm trầm đâu mà chú né tránh. Đây là chuyến xe cuối cùng, chú không đi thì ở lại với rừng. Nếu đi thì tự chịu trách nhiệm cái ba lô. Hồi này có nhiều nguồn tin giới đi địu trúng đậm trầm kỳ lên tới năm, bảy tỷ, mấy ông kiểm lâm, cảnh sát đang truy xét gắt gao.

Người khách miễn cưỡng lên xe sau khi chủ động trả tiền thêm một ghế ngồi để đặt chiếc ba lô. Xe tiếp tục lăn bánh vài trăm mét, chị phụ nữ ngồi kế bên nói tiếng Bắc, khơi chuyện làm quen:

- Đây là đâu vậy anh?

- Xã Krông Pa, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Vùng đất này tiếp giáp huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai.

Ngừng một lát, người đàn ông chủ động giới thiệu:

- Tôi thứ Ba, tên Vĩnh. Còn chị?

- Em là Nụ, nhà ở Hưng Yên. Hai tuần nay lên Chư Sê, giờ xuống Tuy Hòa thăm người bà con vài hôm. Lần đầu đi qua tuyến này, nên em tìm hiểu để biết.

- Tôi thì khác. Đã có một thời gắn bó máu thịt với vùng đất này rồi. Nhiều kỷ niệm lắm. Vui có, buồn có. Chiến tranh thật khốc liệt, thật nghiệt ngã và thật…

Giọng Ba Vĩnh lắng xuống, bất chợt im lặng hồi lâu, rồi thở dài nghe buồn nẫu ruột.

Minh họa: Phạm Minh Hải.

Xe chạy chậm trên cung đường uốn lượn ven rừng đặc dụng Krông Trai. Tháng sáu, gió nam non hiền lành, mát rượi. Nhìn những chùm hoa bằng lăng nở tím triền đồi, Ba Vĩnh chợt thấy nao lòng. Ký ức chiến tranh đánh thức tâm trí người cựu binh năm xưa. Ký ức đó có mùi thuốc súng giữa những trận chiến khốc liệt lẫn trong khói lửa, âm thanh chát chúa của đạn bom. Có bát canh rau rừng ngọt lành giữa buổi trưa ở cứ. Có cơn sốt rét tái phát, hành hạ đồng đội trên đường hành quân giữa mùa lũ lụt. Có những giấc mơ đến ngày hòa bình, đẹp như buổi bình minh tinh khôi từ phía biển.

*

 Ba Vĩnh sinh trưởng ở làng quê phía hữu ngạn hạ lưu sông Bình Bá đổ ra cửa biển Tiên Châu. Con sông gắn bó suốt quãng đời niên thiếu của ông với những trưa hè cùng đám bạn trong làng tung tăng bơi lội, những ngày thu dịu mát mải mê cào hến, rồi đêm đêm theo cha xách đèn đi soi tôm cua, lên xuồng giăng câu, thả lưới đánh cá.

Thời ấy, Hai Kỳ là người bạn thân thiết của Ba Vĩnh. Tuổi mười sáu, nhưng vóc dáng Hai Kỳ cao khỏe, vạm vỡ. Trầm tính, hiền lành, nhưng bản lĩnh và giàu nghĩa nhân. Trận lũ tháng mười năm nọ, nước từ thượng nguồn ập về lúc trời vừa sáng tỏ, cuộn chảy ầm ào, xô đập sạt lở bờ sông, cuốn sập gần chục căn nhà. Nghe tiếng kêu la hoảng loạn, nhiều người đổ xô đến cứu giúp. Trong chớp mắt, Hai Kỳ nhảy xuống dòng nước xiết, đục ngầu sủi bọt, vươn cánh tay rắn khỏe cứu cô con út ông Ba Thiện, dìu vô bờ trước sự cảm phục của nhiều người.

Hai Kỳ là đứa con duy nhất của vợ chồng Sáu Bửu - một ông giáo làng, khiêm tốn, kiệm lời, nhưng rất thương người. Ngày, ông đến lớp dạy chữ miễn phí cho bọn trẻ nhà nghèo. Đêm, ông ra sông chèo xuồng, chài lưới. Mớ cá kiếm được mỗi đêm không nhiều, nhưng dường như đời sống thường nhật ông giáo làng không thể thiếu vắng con sông Bình Bá. Vậy mà, Sáu Bửu bất ngờ biến mất trong đêm cuối tháng tư, khiến cả làng hoảng hốt, xôn xao. Giữa lúc mọi người tất bật ra sông tìm kiếm, tốp Cảnh sát ngụy từ trên quận ập về khám xét nhà ông giáo Bửu. Chúng lật tung mọi vật dụng lớn nhỏ trong nhà, ngoài vườn. Không tìm thấy gì, nhưng gã thiếu úy có hàm râu kẽm, gương mặt sẫm màu chì quắc mắt, đe dọa vợ con Sáu Bửu:

- Thằng chồng mầy đội lốt giáo làng để theo Cộng sản. Nay mai bắt được, tao giải về đây treo ngược cành sộp, mổ bụng coi thử lá gan của nó to tới cỡ nào mà dám chống lại Quốc gia, tín cẩn Cộng sản.

Tới lúc đó, bà Diệu mới biết chồng mình là đảng viên, cơ sở cách mạng hoạt động bí mật trong lòng địch. Nửa tháng trước cuộc bầu cử hội đồng xã, hàng loạt tờ truyền đơn rải từ chợ đến ngã ba đường, phản bác những ứng cử viên xôi thịt, bất tài vô dụng. Cho rằng ông giáo Bửu có vốn liếng chữ nghĩa, đã góp sức tích cực trong vụ rải truyền đơn, tên Quận trưởng khét tiếng gian ác ra lệnh đám Cảnh sát ập xuống vây bắt. Không thể ngờ Sáu Bửu nhanh hơn một bước. Nhận được chỉ đạo hỏa tốc từ huyện ủy, đêm đó Sáu Bửu vứt tấm lưới bên mép sông, nhấn chìm xuồng nan, tạo dựng một vụ lật xuồng, mất tích, trước khi thoát ly lên căn cứ.

Cuối năm. Thông qua đường dây liên lạc bí mật, ông Sáu Bửu hướng dẫn Hai Kỳ cùng Ba Vĩnh lên núi. Đôi bạn nhập ngũ vào đại đội đặc công khi đang tuổi mười bảy. Những buổi huấn luyện quân sự, võ thuật, kỹ thuật đặc công mệt nhoài. Những cuộc hành quân luồn rừng, lội suối xuyên đêm hối hả. Những trận tập kích cứ điểm của địch trong ánh đạn pháo ầm ì, sặc mùi thuốc súng. Những đêm nằm bên nhau giữa rừng ngắm trăng non qua tán lá. Những bữa cơm chiều giữa mùa khô vắt kiệt dòng suối…Tất cả như sợi dây vô hình gắn kết tình bạn, tình đồng hương, đồng đội giữa Hai Kỳ và Ba Vĩnh thân thiện như anh em ruột thịt.

Chiến tranh luôn đầy ắp nỗi đau và nước mắt. Hai Kỳ gặp cha ở căn cứ chưa tròn nửa năm thì ông Sáu Bửu hy sinh trong chuyến công tác xuống đồng bằng, vấp phải ổ phục kích của địch. Hơn hai giờ chống trả quyết liệt, Sáu Bửu trúng đạn, trút hơi thở cuối cùng sau khi gượng sức tung quả lựu đạn hạ gục bốn tên lính, giúp cho hai đồng đội trẻ thoát khỏi vòng vây của địch.

Thời điểm đó, địch huy động lực lượng tăng cường nhiều cuộc càn quét ráo riết vùng nông thôn. Sớm tinh mơ, trực thăng đảo lượn tầm gần. Những gã sĩ quan, binh lính đội nón sắt, mặc áo giáp, ngồi lầm lì hai bên cửa, tay ôm súng AR15 nã đạn bừa bãi xuống triền núi bên đồng lúa, bụi cây ven sông và những khóm dứa dại trên doi cát, hỗ trợ đám lính bộ binh lùng sục, dò hầm bí mật. Nhiều vùng quê, trong đó có làng quê bên sông Bình Bá tan hoang thành vùng trắng bởi bom cày đạn xới, nhưng bà Diệu - mẹ của Hai Kỳ vẫn bám trụ, khắc khoải chờ tin chồng, con.

Ở nơi đơn vị đóng quân trong khu rừng nguyên sinh trên huyện Miền Tây, Hai Kỳ cảm nhận tim mình se thắt nỗi đau mất cha, day dứt nhớ thương người mẹ. Nhiều đêm nghe tiếng Hai Kỳ thở dài, lẫn tiếng sột soạt cựa mình trên liếp nứa trong lán trại, Ba Vĩnh xót lòng. Cũng từ đó, Hai Kỳ trầm tính, ít nói hơn trước. Dường như nỗi đau thương dồn nén, bùng cháy trong tâm thức người lính trẻ, thắp sáng lên ý chí kiên cường, dũng mãnh, nên trận tập kích đánh địch ở cứ điểm Hòn Ngang, Hai Kỳ là trinh sát thiện chiến.

Sau trận đánh đó, đại đội đặc công được lệnh ngược lên Phước Tân, khi có nguồn tin địch mở chiến dịch đánh phá địa bàn này. Cuộc hành quân trong đêm mùa khô. Những bước chân người lính tất bật xuyên rừng, dự báo ngày đại thắng đến gần. Khi dừng chân ở ngả rẽ, Ba Vĩnh lấy bi đông trà xanh rót vào ca nhựa, đưa cho Hai Kỳ rồi cất tiếng dò hỏi, nửa đùa, nửa thật:

- Giữa chốn rừng thiêng, nếu có ông tiên bước ra từ những câu chuyện cổ tích, ban cho mỗi người một điều ước, mầy sẽ ước điều gì?

- Tao chỉ ước mong chiến tranh kết thúc, đất nước sớm hòa bình, thống nhất. Ba tao hy sinh rồi, khi nào gác tay súng, tao về quê chăm sóc má.

Nói tới đó, giọng Hai Kỳ trở nên nghẹn ngào. Ước mơ thật, bình dị. Thế nhưng nghiệt ngã cuộc chiến tranh đầy rẫy đạn bom loạn lạc đã cướp mất ước mơ trong sáng và đẹp đẽ của Hai Kỳ.

Chuyện khởi đầu một ngày cuối tháng chín năm 1971.

Tỉnh ủy Phú Yên nhận được nguồn tin địch tung nhiều toán biệt kích tìm kiếm căn cứ chuẩn bị tổ chức đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ tư. Mũi trinh sát bốn người do Hai Kỳ chỉ huy cắt rừng xuống hướng đông nam nắm tình hình.   

Suốt ngày tuần tra, dò tìm từ dấu giày, mẫu tàn thuốc đến những cành cây, cuống lá dập gãy, nhưng không phát hiện nghi vấn nào. Ánh ngày vừa tắt, mũi trinh sát rút về một gộp đá, mật phục. Không khí đêm rừng dịu ngọt. Trong tiếng suối róc rách chảy đều, có tiếng tắc kè vọng lại từng tiết tấu, rất rõ. Dưới ánh trăng non chênh chếch ảo mờ, Hai Kỳ ngồi trên tảng đá, tựa lưng gốc cây, thả hồn trôi về miền quê thời niên thiếu. Đêm càng sâu, sương xuống càng thêm lạnh, hương hoa bằng lăng thoảng đưa trong gió. Tiếng Hai Kỳ thì thầm, rất nhẹ:

- Sau ngày hòa bình, tao sẽ bứng một gốc bằng lăng rừng thiệt đẹp mang về nhà trồng, để nhớ những ngày tụi mình ở cứ...

Ba Vĩnh linh cảm đằng sau những lời tâm tình của mũi trưởng có điều gì đó lạ thường lắm. Chưa bao giờ người bạn nối khố có những ý tưởng lãng mạn đến thế. Anh húc nhẹ cùi chỏ vào hông Hai Kỳ, giục:

- Thôi, tìm chỗ ngủ một chút để giữ sức khỏe, ngày mai, ngày kia còn chiến đấu nữa chớ mậy.

Trời trở gió. Có tiếng lá rừng cuốn bay xào xạc. Hai người bạn chui vào gộp đá, chợp mắt chốc lát, đã nghe gà gáy sáng. Mũi trinh sát tiếp tục rà soát ngày thứ hai trên diện rộng. Xế chiều, trong lúc vượt qua con suối, một chiến sĩ trẻ phát hiện tàn thuốc Ruby còn rất mới. Mũi trinh sát vừa triển khai đội hình phòng thủ phía sau những tảng đá, thì nhiều loạt đạn AR16 bắn chếch ngọn cây, xé toạc không gian một góc rừng. Bất chợt, tiếng một gã lính nào đó lải nhải kêu gọi qua loa pin cầm tay:

- Hỡi các chiến binh Việt Cộng. Các bạn đã bị bao vây tứ phía. Chỉ còn lối thoát duy nhất là buông súng đầu hàng, trở về với chính nghĩa Quốc gia… Hỡi các chiến binh Việt Cộng. Chúng ta đều là anh em một nhà…

Ba Vĩnh thì thào:

- Địa hình khu rừng này hết sức hiểm trở, tụi mình chủ động tiếp cận trước, không hiểu sao bị lộ…

Ba Vĩnh vừa dứt lời, những loạt đạn của địch bắn xối xả. Trong khoảnh rừng phía trước lấp ló bóng dáng hàng chục tên lính rằn ri, ôm súng dò từng bước. Bốn trinh sát tranh thủ siết chặt tay, nhìn nhau bằng ánh mắt ẩn chứa lời thề cảm tử thì tiếng loa của địch tiếp tục lải nhải kêu gọi đầu hàng. Đáp lại là loạt đạn AK47, khiến ba tên trong toán biệt kích đi đầu đổ gục. Hoảng loạn, những tên còn lại dạt ra hai bên, nép mình sau gốc cây, nổ súng xối xả. Hai Kỳ khoát tay ra hiệu đồng đội chuyển hướng, trong khi gã sĩ quan địch rướn cổ văng tục, gào thét qua máy truyền tin kêu gọi tăng cường binh lính, mưu toan "bắt sống nhóm Việt Cộng". Hai Kỳ xốc lại khẩu súng, điềm tĩnh ra lệnh:

- Số đạn mỗi người mang theo chỉ hai băng, cần phải có chiến thuật tinh tế, linh hoạt…Khi có điều kiện thì rút về buôn Khăm, đánh lạc hướng địch, không để lộ mục tiêu căn cứ của tỉnh ở Phước Tân… 

Mũi trưởng chưa dứt câu, bọn địch nổ súng, vãi đạn tứ tung, trong lúc Hai Kỳ cùng đồng đội ẩn mình bên những tảng đá. Khi một toán lính địch tiến đến rất gần, Ba Vĩnh rút chốt lựu đạn, ném về phía trước. Sau tiếng nổ dội vang, nhiều tên lính gục ngã, tiếng kêu la thảm thiết lẫn trong bụi đất mù mịt.

Chiều xuống chậm. Hai Kỳ đang căng mắt quan sát địch qua khe đá, vắt óc tìm phương án rút quân thì địch mở đợt tấn công mới. Dữ dội và ác liệt hơn. Mũi trinh sát đang luồn rừng, rút về hướng tây giữa làn mưa đạn, Hai Kỳ ngã xuống thềm rừng khi trúng đạn từ phía sau. Trong chốc lát, anh cảm nhận đầu óc nặng trĩu. Ngước lên tán lá, cây rừng như chông chênh, nghiêng ngả, nhưng anh vẫn cố điềm tĩnh, bảo Ba Vĩnh:

- Tao ở lại chặn đánh địch, hỗ trợ anh em rút về hướng buôn Khăm.

- Không được. Tụi tao không thể bỏ mầy.

Mệt lả vì vết thương ở lưng ra nhiều máu, Hai Kỳ nói ngắt quãng trong hơi thở yếu ớt :

- Một người hy sinh để…để cứu ba người là…là cần thiết…Nếu tao không trở về… không về được nữa, đến ngày hòa bình… mầy xin lỗi má Diệu giúp tao...

Những toán lính địch hối hả lao lên. Hai Kỳ gượng sức chồm dậy ôm chặt khẩu súng, siết cò. Ba Vĩnh cùng hai trinh sát nép mình bên mấy gốc cây cổ thụ gần đó, nã đạn. Cuộc chiến đấu không cân sức tiếp diễn quyết liệt, đến khi trời sụp tối Hai Kỳ trút hơi thở cuối cùng. Tiếng súng tạm lắng. Chừng như bóng đêm là lực cản hai phía và cũng là khoảng thời gian cần thiết để địch tăng cường binh lính. Ba Vĩnh lặng lẽ cõng xác Hai Kỳ, dò dẫm xuyên rừng trong đêm. Gần sáng, anh cùng hai đồng đội tranh thủ chôn cất Hai Kỳ khi những toán lính địch đang truy kích phía sau. Bên dưới huyệt, ngoài cành hoa bằng lăng tím, Ba Vĩnh cẩn trọng đặt vào bàn tay người đồng đội một kỷ vật tìm thấy trong ba lô. Đó là miếng nhôm do Hai Kỳ khắc tên và phiên hiệu đơn vị trong những ngày ở cứ. Nước mắt Ba Vĩnh tuôn trào, anh thì thầm trong tiếng nấc:

- Nghiệt ngã chiến tranh khiến cho mầy nằm lại nơi này. Khi nào hòa bình tao sẽ đưa mầy về quê. Tao hứa…tao hứa sẽ thay mầy chăm sóc má Diệu thật chu đáo…Tao hứa…

Có tiếng súng địch rất gần, Ba Vĩnh cùng hai đồng đội phủ lá khô kín mộ Hai Kỳ, rồi rút nhanh lên hướng tây trong tâm trạng ngậm ngùi thương tiếc…

 *

…Chiếc xe khách khựng lại sau cú đạp phanh vội vàng của tài xế khiến cho dòng ký ức chiến tranh trong tâm trí Ba Vĩnh ngắt quãng. Một vài hành khách đang ngon giấc phải bật dậy. Phía trước là tổ công tác phối hợp giữa cảnh sát và kiểm lâm. Họ ra hiệu lệnh kiểm tra. Trong lúc tài xế trình giấy tờ cho cảnh sát giao thông, hai cán bộ cảnh sát, kiểm lâm bước lên xe. Một người trong số họ là thiếu tá Tuấn cất tiếng:

- Xin lỗi tất cả hành khách. Chúng tôi nhận được nguồn tin có người vận chuyển lâm đặc sản trái phép, nên tiến hành kiểm tra theo quy định pháp luật. Đề nghị mọi người hợp tác để chúng tôi thực thi nhiệm vụ.

Những ánh mắt nhìn nhau ẩn chứa hoài nghi. Dường như ai đó mách lẻo, nên tổ kiểm tra không cần dò xét nhiều người. Thiếu tá Tuấn chủ động đến cạnh Ba Vĩnh, cất tiếng:

- Anh mở ba lô cho chúng tôi kiểm tra.

- Các anh có lệnh khám xét của cơ quan thẩm quyền không?

- Chúng tôi không khám xét, mà chỉ kiểm tra hành chính.

- Các anh nghi ngờ gì trong ba lô?

Ba Vĩnh tỏ thái độ bực bội, trong khi thiếu tá Tuấn khẳng định:

- Trầm kỳ. Đây là lâm sản đặc biệt, pháp luật nghiêm cấm khai thác, tàng trữ và vận chuyển trái phép.

- Các anh nhầm rồi. Tôi cam đoan trong ba lô không có trầm kỳ.

Ba Vĩnh vừa lắc đầu, quả quyết, vừa móc ví da chìa ra hai tấm thẻ đảng viên, hội viên  Hội cựu chiến binh, nhưng thiếu tá Tuấn lắc đầu, nói:

- Đây là giấy tờ chứng minh vai trò, nhiệm vụ chính trị của cá nhân đồng chí trong tổ chức đảng, tổ chức cựu chiến binh. Giấy tờ đó không thể chứng minh trong ba lô không có hàng cấm, hàng lậu.

Ba Vĩnh đứng phắt dậy, gương mặt nghiêm nghị:

- Các anh không được xúc phạm...Nên nhớ rằng, bao nhiêu ký trầm kỳ cũng không sánh nổi giá trị trong chiếc ba lô này.

Nhiều hành khách trố mắt ngạc nhiên. Có người cất tiếng hỏi:

- Trầm kỳ không sánh được? Vậy thì trong ba lô có kim cương, đô la tính bằng ký?

Một người khác chen vào bằng thái độ gay gắt:

- Không cho kiểm tra thì mời xuống xe. Lẽ nào một hành khách gây khó hàng chục người phải mệt mỏi chờ đợi dây dưa.

Thiếu tá Tuấn vẫn kiên trì, lựa lời thuyết phục:

- Anh thấy đó. Chủ xe, hành khách đều không muốn phiền phức. Mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành pháp luật. Anh là đảng viên, cựu chiến binh cần phải gương mẫu…

Đến nước đó Ba Vĩnh đành mở chiếc ba lô trước những ánh mắt tò mò của nhiều người. Không hề có trầm kỳ, kim cương hay đô la. Bên trong là bọc ni lon màu xanh được gấp, buộc cẩn trọng, gọn gàng. Và khi mở ra, không riêng những cán bộ thi hành công vụ, mà hàng chục hành khách chứng kiến cuộc kiểm tra đều lặng người trước bộ hài cốt. Ba Vĩnh nói trong tâm trạng bồi hồi:

- Thôi thì tôi biết các đồng chí cũng đang thi hành nhiệm vụ…đây …đây …trong ba lô này là…là đồng đội của…chúng ta.

Chỉ nói được đến đó, người lính già ôm mặt nức nghẹn.


Truyện ngắn của Phan Thế Hữu Toàn
.
.