Gió núi
Trời xanh cao vời vợi, gió thổi mênh mang, bờ lau phơ phất, rừng cây keo cao vút. Tiếng họa mi, cu cu, chào mào... gọi bạn tình thao thiết, bản hợp xướng tuyệt vời giữa trời đất trung du. Tôi nhận li cà phê từ tay ông chủ quán Gió Núi, mặt mũi dị dạng nhưng ứng xử lịch lãm, và cà phê ông pha rất ngon. Thật khó đoán tuổi chủ quán, chỉ nhận ra mái tóc ông đã lấm tấm muối tiêu. Có thêm hai khách vào quán gọi:
- Ông "Vinh cháy", cho hai cà phê đá!
Qua cách gọi của khách quen, tôi nghĩ, cái tên ghép của chủ quán hẳn là có uẩn khúc gì đây?
Gió luồn lách qua các sườn núi lướt nhẹ vào thung, lá vàng bay xào xạc. Tôi ngồi nhâm nhi li cà phê thơm phức, phóng tầm mắt ra triền đồi thoai thoải đổ nghiêng xuống bờ sông, thấp thoáng những ngôi nhà được xây cất đẹp trong miệt vườn cây thế, cây cảnh, và hoa đủ sắc màu. Dưới chân núi, đàn trâu, bò hàng trăm con đang thong dong gặm cỏ. Tiếng mõ trâu lốc cốc, phong cảnh thật thanh bình trong nắng gió mùa thu.
"Vinh cháy" đem quần áo ra hong ngoài thềm, ông vuốt phẳng các nếp nhăn trên chiếc áo quân phục nữ, thỉnh thoảng lại ôm lấy chiếc áo như ôm một người tình. Hai người khách quen vừa uống cà phê vừa trỏ vào ông, nháy mắt với tôi rồi nói nhỏ: "Ông ấy thường làm như vậy suốt mấy chục năm qua...".
Chủ chiếc áo kia là ai không ai biết. Người ta chỉ biết rằng ông ấy không lấy vợ. Nhiều cô gái tình nguyện nhưng đều bị ông khôn khéo khước từ. Có cô khóc vì thương anh thương binh, vì tủi cho duyên phận mình... Từ khi ông Vinh về đến nay, người làng chỉ biết ông là thương binh loại hai, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba trong kháng chiến chống Mỹ. Cái tên Vinh "cháy" gắn liền với chiến công của người lính lái xe trên đường Trường Sơn. Ông bị bom na - pan làm bỏng nặng mặt, mũi, biến dạng, may còn giữ được hai con mắt.
Do sự nhạy cảm nghề nghiệp, tôi nghĩ Huân chương Chiến công hạng Ba chẳng dễ có đâu. Thương tích thế kia, chắc phải là những chiến binh quả cảm mới có được. Qua câu chuyện từ hai ông khách quen cùng uống cà phê mà tôi nghe được thì ông nguyên là Đại đội trưởng lái xe của một đơn vị Anh hùng thuộc Đoàn 559 Bộ đội Trường Sơn. Tôi nghĩ, phải tiếp cận ông Vinh, có thể mình viết được cái gì đó về ông cũng nên...
Hai ông khách nọ gọi chủ quán ra thanh toán, rồi lên xe đi thẳng. Lúc này mình gợi hỏi chuyện là tốt nhất, tôi nghĩ vậy và lựa lời:
- Thưa bác Vinh, cháu có thể gọi cả tên đệm của bác được không ạ?
- Ồ, cứ tự nhiên! Cái tên Vinh "cháy" là do anh em trong trại điều dưỡng đặt để phân biệt với những người cùng tên, gọi mãi thành quen, bận tâm làm gì.
- Cháu là nhà báo, muốn làm một phóng sự, thật may được gặp bác.
Tôi đưa tấm thẻ nhà báo và chứng minh thư cho ông.
- Ồ, anh cũng họ Lê à?
- Vâng ạ! Tên đầy đủ của cháu là Lê Anh Tuấn.
- Còn tên tôi là Lê Nguyên Vinh. Mọi người quen gọi là Vinh "cháy", cháy mặt ấy mà. Da mặt tôi bây giờ có một phần thịt da của đồng đội nữa đấy, vì phải vá víu lại mới được thế này.
Nói rồi ông cười khà... khà...
![]() |
Minh họa: Ngô Xuân Khôi. |
Nếu chỉ nhìn vào gương mặt dị dạng kia thì thật khó gần, nhưng hóa ra ông cũng là người dễ gần, dễ mến!
- Bác Vinh "cháy" có thể kể cho cháu về chiến công mà bác được thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba, và những kỷ niệm một thời bom đạn không ạ?
- Chuyện thì có nhưng buồn và dài lắm! Mà trời sắp tối rồi, thôi để lúc khác.
Tôi nhìn ra ngoài, nắng chiều nhạt dần, hoàng hôn đã dần nhuộm tím mặt sông. Tiếng chuông chùa binh boong thả vào không gian yên ả. Đàn trâu, bò no tròn nối đuôi nhau xuống núi, tiếng bê nghé gọi mẹ bi be... bi be... Bản nhạc đồng quê khi chiều về mênh mang và quyến rũ. Tiết trời đã vào cuối thu. Vùng trung du đêm xuống rất nhanh. Tôi đành từ biệt ông để ra về.
*
Hôm nay, Vinh "cháy" đi nằm sớm hơn mọi ngày, nhưng ông thao thức mãi không sao ngủ được. Ông lại đem tấm ảnh chụp chung ba người ra ngắm nghía, rồi soi gương nhìn mãi mặt mũi kỳ quái của mình, cố nén tiếng thở dài ngao ngán...
Những ký ức vui buồn và mối tình đầu đã lặn sâu lại hiện lên trong tâm trí ông... Vinh "cháy" nhớ đến hình ảnh cô y tá, người đã chăm sóc mình suốt mấy tháng trời ở trạm xá tiền phương. Bón cơm, tiếp máu, cô ấy hiến cả da thịt để bác sĩ cấy vá mặt mình. Thành ra, mình bị thương, cô ấy cũng phải mang thương, bởi vì lấy da thịt người này cấy ghép sang người kia, đâu phải cứ cắt ra là ghép ngay được. Người cho phải mang vết thương trong thời gian nuôi mô. Nghĩ đến đây ông khóc nức nở như đứa trẻ. Nghĩ thương nhớ người yêu và thân phận mình không thể chia sẻ với ai. Trằn trọc mãi rồi ông thiếp đi lúc nào. Sáng ra, trời lại đổ mưa. Ông chẳng vội dậy làm gì, mưa gió thế này ai vào quán. Định bụng nằm thêm chút nữa, nhưng hình như có tiếng ai gọi ngoài kia, ông vội ra mở cửa.
- Ôi, chào nhà báo. Mưa gió thế này...
- Ông bỏ dở câu - ... mời anh vào trong nhà. Thế đêm qua anh nghỉ ở đâu mà đến đây sớm thế?
- Cháu nghỉ tại nhà khách ủy ban huyện ta bác ạ.
- Thế thì ngay đây thôi. Mời anh dùng trà, ta uống cà phê lai rai sau nhé.
- Vâng cảm ơn bác.
Tôi nhấp ngụm trà hương sen thơm ngát, vào lúc sáng thanh tâm mới cảm nhận hết cái hương vị thơm ngon tinh khiết của nó lan tỏa trong vị giác, khứu giác thật là thú vị. Đúng là "danh bất hư truyền" về trà sen và cà phê ở quán Gió Núi. Có dịp, tôi quan sát căn nhà mái bằng khoảng hơn bảy chục mét vuông, một phòng khách, một phòng ngủ bài trí gọn gàng sạch đẹp. Tôi chú ý đến tấm ảnh ba người lính, hai nam, một nữ đứng giữa, phóng to treo trang trọng giữa phòng khách. Cũng vừa lúc ông đem cà phê ra.
- Nào, mời anh Tuấn thưởng thức cà phê Trung Nguyên nhé. Trưa nay anh ở lại đây dùng cơm với tôi, chả mấy khi nhà văn, nhà báo đến nhà. Tôi sẽ tự làm vài món nhắm, ta lai rai cũng chẳng đến nỗi tồi đâu.
- Vâng ạ, cháu cảm ơn bác! Tấm ảnh ba người treo trên tường kia có bác ở trong đó không?
- À, để tôi giới thiệu: Đứng bên trái là bác sĩ Việt, Trưởng khoa Ngoại, người phẫu thuật chỉnh hình cho tôi đấy. Ông này giỏi lắm, được mệnh danh người có đôi bàn tay vàng. Người đứng giữa là cô Hạnh, y tá trưởng, đã tiếp máu và hiến da thịt để vá lên cái mặt tôi đây. Người cuối cùng đứng bên phải là tôi. Lê Nguyên Vinh khi hai mươi tuổi đấy. Anh nhìn Vinh hôm nay, với Vinh ngày xưa thấy hai thằng này có gì khác nhau không?...
Nói rồi ông cười chua chát, từng thớ thịt trên mặt rung rung giần giật, hình như ở hai khóe mắt có những giọt nước đang chực chảy xuống. Thú thật, tôi không dám nhìn vào gương mặt dị dạng của ông lúc này. Thương lắm!
- Thế chiến tích của bác về chiếc Huân chương Chiến công hạng Ba?
- Cũng đơn giản thôi: Mùa xuân năm 1975, đơn vị tôi nhận lệnh thượng khẩn: "Sau ba giờ nữa phải có năm xe đạn ĐKB đến điểm X!". Xe tôi đi trước, mới đi chừng nửa đường thì máy bay địch phát hiện, chúng chặn đầu khóa đuôi, bắn đạn 40 li xối xả, ném bom phá, bom na pan. Tôi bật đèn pha thu hút hỏa lực địch về mình và lệnh cho 4 xe sau rẽ vào đường tránh tiếp tục đi. Khi xe tôi giao hàng xong quay ra thì đồng chí lái xe số 2 hy sinh. Chiếc xe vẫn nổ máy, tôi vừa bước vào buồng lái thấy đau nhói ở cẳng chân, không kịp băng bó, tôi đạp lút ga lái chiếc xe chạy hết tốc độ. Giao xe hàng thứ hai xong, tôi băng vết thương, rồi lại quay ra tìm xe số 5, đi được một đoạn chỉ nghe tiếng nổ "bụp" và một quầng lửa như máu. Khi tỉnh dậy, tôi mới biết mình đang nằm trong trạm quân y tiền phương là nhờ các đồng chí công binh trực chiến trên đoạn đường này đưa đi cấp cứu. Tôi gặp cô Hạnh ở đó, quen nhau, thương nhau, rồi yêu nhau, một mối tình thật đau và rất đẹp!
- Thế… bác gái giờ ở đâu?
- Trước khi tôi ra Bắc an dưỡng và chuẩn bị cưới, hai đứa gặp nhau ở trạm xá tiền phương một đêm, vì chuyện tình cảm của chúng tôi đã báo cáo với trạm, lãnh đạo đã biết và tạo điều kiện cho chúng tôi gặp nhau trước lúc cưới. Đêm ấy, chúng tôi đã sống với nhau như vợ chồng với bao khát khao và hy vọng. Nhiều lúc tôi ôm cô ấy mà khóc. Khóc vì tình đồng đội yêu thương nhau như ruột thịt, khóc vì tình yêu lứa đôi gắn bó keo sơn, khóc vì tinh thần xả thân cứu bạn, khóc vì máu, và thịt da cô ấy đang hiện hữu trong người tôi, khóc vì cô ấy rất đẹp!... Tôi có đáng được hưởng cái hạnh phúc này không, khi mặt mũi tôi như thế này? Tôi cứ nghĩ như vậy mà bao đêm không ngủ. Chia tay nhau mới được một tháng ba ngày thì B52 trút bom vào trạm xá tiền phương, cô Hạnh hy sinh khi cứu đồng đội.
Ông Vinh "cháy" kể đến đây thì khóc nấc lên. Nghe tiếng khóc của người già, nhất là hoàn cảnh của ông, tôi không dám hỏi gì thêm nữa. Trời ơi, tôi đã chạm vào nỗi đau của ông.
- Cháu xin lỗi bác! Cháu đã vô tình chạm vào nỗi đau của bác!
- Không sao đâu anh Tuấn! Có người chia sẻ, tôi thấy như mình vơi bớt nỗi buồn. Cảm ơn anh đã đến quán Gió Núi. Chuyện có thế, anh viết được gì thì viết.
Hai bác cháu tôi cùng vào bếp chuẩn bị bữa cơm trưa, làm vài món: thịt gà ri đảo mẻ, cá hấp, nem chua, hoa chuối nộm. Rượu nút lá chuối thơm ngon. Khi đã ngà ngà rượu, tôi buột miệng hỏi:
- Thế sao bác không kiếm cô... ô...- Biết mình lỡ lời tôi không nói hết câu.
Ông Vinh giải thích:
- Trước khi xuất ngũ, khám lại sức khỏe, mình bị dính thêm chất độc màu da cam. Được tăng hạng từ thương binh loại hai lên loại một. Nhưng bác sĩ khuyên không nên có con. Tôi đã nuôi cháu Nguyễn Cường, con liệt sĩ Nguyễn Văn Thanh, người lái chiếc xe số 2 đấy. Mẹ cháu Cường mất vì bệnh ung thư lâu rồi. Cháu Cường đang học đại học năm thứ hai. Thấm thoắt đã hơn chục năm hai cha con tôi sống ở cái quán Gió Núi này. Nhà vắng bóng đàn bà, nhất là khi ốm đau, giỗ, Tết, lúc có khách cũng tủi lắm anh ạ. Người xưa nói "giàu vì bạn, sang vì vợ". May mà có sự đùm bọc của nhân dân. Nhất là bà con ở xóm núi này. Mong sao đất nước mình luôn sống trong hòa bình, ngày càng giàu mạnh thì ta chả tiếc máu xương