Đêm ma trơi

Thứ Hai, 16/07/2018, 08:33
Một luồng lửa màu sắc lạ lùng chập chờn nhảy nhót. Luồng sáng đó chiếu xuống mặt nước đầm thành ra nhóng nhánh đủ màu. Cả một vùng bờ nước đang tĩnh lặng chợt rực lên một màu ma quái. Chị Dịu cuống quýt quay sang ôm chặt lấy tôi, thở không ra hơi: “Chấn ơi, ma trơi!”...

Chiều hôm ấy, tôi đi làm hợp tác xã thay cho mẹ một buổi, tát nước gầu giai đám mạ cửa làng. Tôi đang học lớp cuối cấp ba, gần mười bảy tuổi. Người tát cùng tôi là chị Dịu trong ngõ, hơn tôi một tuổi, mười tám. Chị học xong cấp hai không thi được vào cấp ba thì ở nhà đi làm xã viên hợp tác. Tôi chỉ thỉnh thoảng được nghỉ học mới đi làm thay mẹ một buổi mà thôi.

Kẻng hợp tác, hai chị em xách gầu, cuốc ra cánh đồng đầu làng, vét một chỗ tát ở cái chuôm nhỏ bên cạnh. Kéo gầu tát nước vào ruộng. Ai đã từng đi tát nước gầu giai mới biết, phải qua vài nhịp thì hai người cùng tát mới phối hợp nhịp nhàng với nhau được. Đứng dé chân chèo đối diện nhau, hai tay cầm hai dây gầu, tung ra xa, vục múc nước, kéo lên, đổ xuống ruộng. Rồi lại vung dây gầu ra xa, cứ thế, ục... òa, ục... òa...

Vừa thong thả tát vừa chuyện phiếm. Tát nước gầu giai là việc nhẹ nhàng nhất của nhà nông. Mà vui nữa, khi cặp đôi tát nước là một nam một nữ. Tôi mới tát nước với chị Dịu lần đầu nhưng ăn ý ngay. Chị bảo: “Chấn tát dẻo ghê. Nhẹ. Chứ đi tát với nhiều người khác. Nặng. Khó chịu lắm”. Tôi bảo: “Em thợ tát vét từ bé mà”.

Bọn trẻ làng tôi hay rủ nhau lập đội tát vét bắt cá ngoài đồng. Ruộng nông thì gầu sòng đưa một hồi là cạn. Ao sâu thì tát gầu sòng đến mức nước sòng không với được nữa thì chuyển sang múc gầu giai. Sâu thì nối dây gầu. Tát cạn hết. Chị Dịu rủ: “Hôm nay ấm trời. Tôm chắc ra nhiều, tối đi cất vó ngoài đầm Mai nhé?”.

Tôi hưởng ứng: “Được đấy. Về làm bát cơm nguội rồi đi”. Hồi ấy nông dân hợp tác làm theo kẻng. Buổi chiều, 1h30 kẻng đi làm. 3h30 giải lao. Làm tiếp đến 5h là kẻng nghỉ, tất cả buông tay về nhà. Cấy dở, gặt dở, đang dở dang nửa đường bừa cũng mặc. Mai ra làm tiếp. Giờ nghĩ lại, thấy đến là buồn cười.

Hồi xưa ở quê tôi rất nhiều đầm, ao, chuôm. Nhà nào cũng có ao. Những cái ao sâu giữa cánh đồng thì gọi là chuôm. Còn xung quanh làng có một cái đầm rất to. Cái đầm này nối liền với các đầm của các làng xung quanh bằng những con mương chìm sâu hoắm. Bà ngoại tôi hay dặn bọn choai trong nhà là chớ có tắm ở mương chìm, vì rất sâu và bờ trơn tuột như sườn bò, trẻ con nhao xuống rồi không leo lên được thì chỉ có chết đuối.

Vì đầm to nước sâu mà lại thông nhau bằng những con mương như thế nên các làng rất ít khi tát đầm. Tôm cá nhiều. Cá trê cá chuối đen bóng. Cá chép cá giếc vàng ươm. Những con rô cụ vây gai giương lên nhọn hoắt bơi nghênh ngang cả đàn. Thỉnh thoảng có con trắm đen to như cây chuối hột nhao lên mặt nước quẫy ùm ùm.

Nhưng hồi đó bọn tôi khoái nhất là tôm! Đầm, mương, chuôm đều có nhiều tôm. Những con tôm càng to bằng ngón tay cái người lớn râu ria lòa xòa vung vẩy đôi càng thô ráp đen sì. Thế nhưng ăn loại này không ngon bằng tôm trứng. Những con tôm cái ôm một bụng trứng to tướng. Vặt đầu râu, rang với chút mắm, đường, mì chính ăn cơm nóng thì thôi rồi là ngon. Nghĩ đến đã chảy cả nước dãi...

Tôi và chị Dịu, hai chị em mỗi người vác một bộ mười lăm cái vó tôm ra bờ đầm Mai đặt. Đầm Mai ở giữa cánh đồng khá xa làng tôi và làng Mai. Nhưng hình như ngày xưa nó thuộc của làng bên đó nên mới có tên vậy. Đặt xong vó thì trời vừa chạng vạng. Tôm đi chạng vạng cá đi rạng đông.

Hôm ấy cuối tháng hai âm lịch nhưng trời khá ấm. Chị Dịu mặc mỗi một cái quần phíp đen và cái áo đông xuân trắng. Hình như lúc đi làm đồng về, chị ấy đã kịp tắm thay quần áo. Lưng thắt một sợi dây tự bện bằng đay, lồng bên sườn cái giỏ đựng tôm và ống bơ thính. Thính rang bằng cám gạo thơm nức, trộn thêm tí đất dẻo và hòa nước.

Tôi đồ rằng bọn tôm dưới đầm tối nay sau cả đợt rét đài vừa xong, chui ra khỏi chỗ nấp thì sẽ chết mê với món này. Tôi chiếm một dải bờ chuôm. Chị Dịu chiếm dải liền sau. Chị bảo: “Tí nữa tối mà đi cất thì hai chị em mình đi từ hai đầu lại rồi gặp nhau ở chỗ này ngồi nghỉ cùng cho đỡ sợ nhé”. Tôi cười: “Có gì mà sợ?”. “Chị sợ ma!”. “Ồ, em mong gặp ma để xem có thực như bà em bảo không đây”. “Bà bảo sao?”. “Bà em bảo, ma thì chân tay lạnh toát, còn người mềm nhũn như bún...”. “Thôi, khiếp!”. Vừa nói, chị Dịu vừa xoay người sang đưa bàn tay bịt mồm tôi lại...

Bên kia bờ đầm hôm ấy không thấy đứa nào bên làng Mai ra đặt vó. Thành ra giữa cánh đồng xa chỉ có tôi và chị Dịu. Bọn tôi thả thính đặt vó xong ngồi trên bờ chuyện phiếm một chút đợi cho lũ tôm mò vào ăn thính rồi sẽ cất. Chúng tôi nói chuyện linh tinh, cơ mà hạ giọng rì rầm. Gần như thầm thì. Làm như là lũ tôm dưới nước kia có thể nghe được mà bỏ đi chăng. Rồi chúng tôi tới cầm chiếc cần bằng nhánh tre hóp, nhẹ nhàng nhất có thể, từ từ cất chiếc vó lên khỏi mặt nước.

Minh họa: Nguyễn Đăng Phú

Cho tay vào lòng vó làm bằng vải màn cũ, tóm lũ tôm tham ăn lúc đó mới cuống cuồng nhộn nhạo nhảy nhót cho vào giỏ. Nhón một cục thính ướt ném vào giữa vó. Đặt xuống nước từ từ cho chạm đáy đều khỏi đổ. Rồi đi sang cất chiếc khác.

Tôi và chị Dịu cất hết lượt trở về quãng giữa. Ngồi nghỉ vài phút để cho lũ tôm xung quanh có đủ thời gian ngửi thấy hơi thính mà rủ nhau vào lòng vó tiệc tùng. Đã qua chạng vạng, nhưng hôm ấy trở trời, nhiều tôm. Chị Dịu bảo: “Cất đến bao giờ tôm không ăn nữa thì về nhé”. Cuối tháng tối om. Hai chị em cứ mò mẫm đi trên bờ đầm trong đêm. Không có đèn.

Hồi ấy thì chỉ có đèn xách tự chế bằng vỏ chai hoặc sang hơn thì đèn bão. Thế nhưng vội đi nên cả hai chị em chả ai mang theo. Chúng tôi cứ đi miên man trên bờ đầm như thế. Mê đi vì giỏ tôm to chả mấy mà đầy. Chúng tôi lấy một cái vó lên, đổ giỏ tôm đầy vào, buộc chặt rồi lại đeo giỏ đi cất tiếp...

Chị Dịu là con bác Hà cuối ngõ, nhà tôi thì đầu ngõ. Bố tôi cùng đi, cùng đơn vị bộ đội với bác Hà nên hai nhà thân nhau. Chị Dịu xinh, duyên dáng, nhẹ nhàng. Tôi thỉnh thoảng vẫn ngắm chị và nghĩ, bác Hà kể cũng khéo đặt tên cho cô con gái đầu. Tôi chưa thấy chị to tiếng hay cáu gắt ai bao giờ. Mẹ tôi vẫn khen chị ấy có nước da đẹp. Dù đi làm ngoài đồng suốt nhưng vẫn trắng hồng, đến lạ.

Tôi thích cái răng khểnh của chị, mỗi khi cười thật duyên. Thỉnh thoảng đi làm cùng hay vào nhà chị chơi tôi vẫn ngắm và khen chị. Chị cũng coi tôi như em. Có lần chị ấy còn hỏi tôi xem lông mày chị tỉa thế có đẹp không. Tôi nhìn sát vào đôi mắt đen láy long lanh, đôi lông mày cong cong phía trên được tỉa khéo như một nét vẽ.

Tôi bảo: “Đẹp. Cơ mà em thích mắt chị hơn. Đen láy như mắt con cún nhà em!”. Chị Dịu dí nhẹ ngón tay cái vào trán tôi, quay sang với cái khăn trùm đầu rồi đi làm đồng. Tôi về nhà mình mà cũng chẳng nghĩ gì thêm. Mẹ tôi không đẻ con gái nên tôi vẫn coi chị ấy là chị gái. Tuy có lúc thoáng buồn khi nghĩ chị Dịu sẽ yêu và sớm lấy một anh chồng hơn nhiều tuổi. Thậm chí cả chục tuổi. Như mấy anh mới đi bộ đội về đang lăm le đánh tiếng với bác Hà. Bởi trong đầu óc tôi khi đó vẫn hằn lên suy nghĩ, vợ chồng là phải như bố mẹ tôi hay là nhà bác Hà cũng vậy.

Hơn nhau đến mười mấy tuổi. Chả là hai ông đều đi kháng chiến, xong trận Điện Biên mới về làng cưới vợ. Nên tôi thấy chị Dịu xinh. Cơ mà chỉ thế thôi, chả nghĩ gì hơn. Thật ra thì hồi ấy tôi đã dậy thì. Thế nhưng tôi hoàn toàn mù mờ về bản thân. Tôi chưa thấy có một khát khao giới tính nào, mặc dù thể lực khá tốt do chăm đá bóng bên bãi với bọn trai làng và bơi lội dưới sông.

Nghe bọn cùng trang lứa kháo nhau chuyện trai gái này nọ tôi cũng chả thấy gì. Bọn chúng nó lấy làm lạ. Có thằng nhân cơ hội cùng bơi sông với nhau đã lặn xuống, giả vờ sờ tôi. Tôi phát cáu dìm cho một trận... 

Lúc chiều nay cùng vác vó ra cái đầm giữa cánh đồng, tôi thấy chị Dịu mặc cái áo đông xuân trắng nhưng hình như bên trong không mặc gì nữa, ngực cứ núng nính. Mà vú chị Dịu to và đẹp. Tôi đã nhìn thấy rồi. Khối lần tôi vào nhà bác Hà chơi, gặp chị ấy cởi trần ngồi tắm bên chum nước mưa cạnh cây cau, chị ấy còn quay ra cười với tôi. Tôi thấy chuyện đó cũng chả có gì. Tôi đã từng kể, con gái làng tôi hồi ấy tắm trần buổi chiều trên đầm sen cạnh làng là thường mà, có gì lạ đâu...

Đêm cuối tháng hai. 

Trời rất tối. Những hạt mưa xuân từ trời thốt nhiên buông xuống mù mịt tự lúc nào. Hình như những hạt mưa xuân bay lơ lửng kia làm cho màn đêm đang tối đen mò mẫm bỗng như sáng ra. Cả đất trời ngập trong một thứ ánh sáng lạ lùng. Huyễn hoặc mờ ảo. Cứ như là bầu trời là một cái vú khổng lồ đang tuôn những giọt sữa li ti trắng trải khắp không gian. Những giọt sữa trời khiến cho muôn loài dưới mặt đất sinh sôi nảy nở. Mà chắc cũng vì thế nên lũ tôm như động tình, chúng tung tăng ra khỏi chỗ núp, dắt nhau đi chơi xuân, tiệc tùng. Mùi thính gạo thơm nức, món khoái khẩu của họ nhà tôm, khiến cả bọn không cưỡng nổi, cứ lần lượt rủ nhau vào vó chúng tôi.

Tôm nhiều đến nỗi, có những cái vó khi cất lên khỏi mặt nước tôi thấy trĩu nặng, tưởng như có một đống bùn to dưới đáy. Thế nhưng khi sờ vào mới biết là cả một lũ tôm to. Tôi và chị Dịu chả còn biết gì đến mưa, đến đêm. Mê mải cất vó, nhặt tôm. Cơ hồ như tôm của đầm Mai, các đầm xung quanh đã theo những con mương chìm sâu thẳm đổ về, chui hết vào vó của chúng tôi...

Nhưng mà trời đã về khuya lắm rồi. Xa xa trong làng yên ắng mờ ảo dưới làn mưa bụi có con gà trống ngủ mơ nào đó đã cất tiếng gáy xao xác. Hai chị em rủ nhau về, hẹn tối mai lại ra cất tiếp. Chúng tôi thu vó gập gọn, buộc chặt. Đang định vác lên vai thì bỗng phía bên kia bờ đầm có một luồng ánh sáng xanh lè, đỏ rực, trắng toát phụt lên cao ngất. Một luồng lửa màu sắc lạ lùng chập chờn nhảy nhót. Luồng sáng đó chiếu xuống mặt nước đầm thành ra nhóng nhánh đủ màu. Cả một vùng bờ nước đang tĩnh lặng chợt rực lên một màu ma quái. Chị Dịu cuống quýt quay sang ôm chặt lấy tôi, thở không ra hơi: “Chấn ơi, ma trơi!”.

Tôi năm ấy đã học lớp cuối cấp ba. Tôi biết ma trơi là gì.

Nó chỉ là hiện tượng thiên nhiên bình thường, khi xác chết bị phân hủy thành một hỗn hợp khí bốc lên gặp tàn lửa và cháy, thế thôi. Nhìn ngọn lửa ma trơi đang chập chờn nhảy nhót tôi mới chợt nhớ ra, bên đám ruộng cạnh bờ đầm bên kia là nghĩa địa làng Mai. Mấy hôm trước bên đó vừa có đám ma. Tôi định giải thích cho chị Dịu yên tâm nhưng chị cứ bấu chặt, nhắm mắt gục đầu vào vai tôi, hơi thở hổn hển hoảng loạn như người sắp chết đến nơi. Tôi đành đứng chịu trận ngắm ánh lửa ma trơi nhảy nhót trên bờ, trong đầm nước và vòng tay ôm lấy vai cho chị đỡ sợ.

Tôi vốn là một thằng con trai gan dạ. Có chút liều lĩnh. Hồi năm học lớp 4, bọn tôi đi sinh hoạt tổ thiếu nhi tối ở làng bên về. Đường đi phải qua cánh đồng nên mẹ tôi bảo mang theo một cái gậy tre, vừa đi vừa gõ cộc cộc xuống đường. Bọn rắn rết nghe thấy từ xa mà lỉnh đi. Không dẫm vào nó sẽ không cắn người. Bọn tôi về đến đầu làng thì gặp ngay một hình nhân trắng toát đứng lù lù giữa đường, ú ớ khua khoắng rồi ngồi thụp xuống.

Cả bọn rú lên, “ma, ma...” bỏ chạy tán loạn. Tôi đi sau, lấy hết sức bình sinh, táng vào đầu cái bóng trắng kia một gậy, “cốp”, giòn tan. Tôi chạy theo bọn bạn gào to, không phải chạy nữa, người đấy, không phải ma đâu! Tao vừa táng một gậy thấy đầu rắn lắm! Là vì bà tôi đã bảo, ma nó hay mặc quần áo trắng. Và người ngợm mềm như bún, cả đầu cũng mềm...

Nên tôi cũng chả sợ gì ma trơi.

Nhưng chị Dịu thì sợ thực sự. Chị bấu chặt vào người tôi run lẩy bẩy, cơ hồ muốn xỉu ra đây. Tôi phải ôm ghì chặt. Áp chặt mình vào thân thể chị. Đầu chị Dịu thì gục vào vai tôi. Hai tay ôm chặt lưng tôi. Tôi ôm vai chị đứng lặng nhìn ra đầm nước. Những ánh lửa lân tinh ma trơi vẫn đang nhảy nhót điệu quái dị của mình. Thân thể chị Dịu vẫn run lên từng đợt trong lòng tôi. Tôi chẳng biết làm gì hơn. Đứng im như vậy.

Chị Dịu rướn sát vào người tôi thì thào: “Chấn ơi, đứng im cho ma trơi nó biến đi rồi hãy về. Chạy về bây giờ là nó theo vào nhà đấy”.

Bà tôi xưa cũng bảo, đi đêm mà có gặp ma trơi thì đừng có chạy. Cứ nhẹ nhàng mà đi. Chạy là nó đuổi theo. Sau này thày Kiền dạy Hóa bọn tôi có nói, ma trơi là khí cháy nhẹ nên khi gặp, ta chạy, nó đuổi theo chẳng qua là khi vận động mạnh sẽ tạo ra một luồng gió hút nó theo, thế thôi. Thế nhưng lúc ấy tôi không tài nào mở miệng ra giải thích cho chị Dịu được. Cả người tôi cứng ngắc. Đến miệng cũng cứng lại.

Lúc chị Dịu sợ hãi ôm chầm lấy tôi, tôi định trêu chị ấy thêm. Thế nhưng thấy chị bấn loạn quá tôi không đành. Tôi định lặng im để đợi cho chị trấn tĩnh dần. Nhưng rồi khi thân thể run rẩy nóng rực của chị áp sát vào thân thể tôi, bỗng như có một làn sóng điện truyền sang.

Tự nhiên tôi thấy người mình râm ran khác lạ. Tôi bỗng cảm nhận được hết những gò đồi bờ bãi suối khe ấm nóng dịu dàng mềm mượt nơi chị. Từ trong thân thể trai mười bảy tuổi của tôi như có một ngọn núi lửa thốt nhiên khai mở. Tôi vô thức hít ngửi mái tóc chị Dịu đang dụi ngay dưới mũi. Một mùi hương lạ lùng. Không phải là mùi bồ kết hay hương nhu chanh sả mẹ tôi hay gội. Rất lạ. Không tả được. Nhưng thơm. Thơm mê đi.

Mãi sau này tôi mới hiểu đấy là mùi hương của mái tóc trinh nữ. Nhưng lúc đó, mùi hương ấy bỗng khiến tôi không còn nghĩ được gì nữa. Tôi cảm thấy người mình lớn bổng lên. Tôi thấy chị Dịu bỗng bé nhỏ và yếu đuối làm sao. Trong lòng tôi trào lên một cảm giác muốn che chở, muốn ôm ấp, muốn âu yếm, và muốn những gì nữa mà khi đó đầu óc tôi hoàn toàn mụ mẫm không hiểu nổi. Tôi chỉ biết là tôi muốn.

Tôi riết chặt chị. Người bừng bừng như lửa. Tôi nhắm nghiền mắt lại, áp sát thân thể đang nóng nhức của mình vào chị. Qua mấy lần vải mỏng, những bờ bãi suối khe cây rừng mướt mát của chúng tôi như hút chặt vào nhau. Dính chặt lấy nhau. Day diết. Rồi một phút giây, tôi bỗng thấy cơ thể mình rùng rùng chuyển động. Tôi nhắm nghiền mắt lại, trong đầu có một quầng sáng rực rỡ hơn cả ánh lửa ma trơi kia nổ tung...

Hai chúng tôi cứ dính chặt lấy nhau bên bờ đầm nước. Hình như vòng tay đã bị khóa, không rời khỏi thân thể nhau được nữa. Ánh lửa ma trơi vẫn chập chờn le lói. Mưa bụi vẫn bay trắng trời. Mưa vương ướt đẫm mái tóc chị Dịu. Tôi dụi mặt xuống mái tóc đẫm nước ấy. Tóc tôi, mặt tôi cũng đẫm nước.

Chị Dịu ngẩng mặt lên nhìn tôi. Trong đêm xuân mưa bay quấn quýt, ánh mắt long lanh lạ. Dường như không còn sợ hãi nữa. Khuôn mặt hồng rực trong đêm. Tôi đưa hai tay nâng khuôn mặt chị và cúi xuống, áp khuôn mặt đang đẫm nước mưa vào đôi má nóng bừng... Nước mưa lạnh làm chị Dịu như chợt tỉnh. Chị hổn hển nói nhanh: “Để vó đây mai ra lấy sớm. Chị em mình về đi. Chị sợ...”.

Bỏ cả vó. Bỏ cả giỏ tôm. Hai chúng tôi díu vào nhau đi về làng. Lúc ấy tôi chỉ mong con đường về làng xa mãi. Xa mãi ra. Bất tận cũng được. Tôi đi mà chân bồng bềnh như không chạm đất. Hai chúng tôi như trôi trong màn mưa xuân dịu dàng rắc xuống xóm làng vẫn đang mê ngủ. Tôi không nhớ nổi là đã về đến ngõ nhà mình thế nào. Tôi đã cõng, đã bế, đã dìu, đã cắp, đã ôm chị Dịu về. Tôi hoàn toàn không nhớ. Đưa chị vào cổng, tôi chạy về nhà, tuột bộ quần áo ướt, tròng cái quần đùi khô vào là lăn vào giường chìm ngay vào một giấc ngủ sâu chưa từng thấy.

Sáng hôm sau thức dậy thì thấy bố tôi và bác Hà đang ngồi uống trà ngoài bàn.

Bác Hà bảo: “Hai đứa chúng mày đêm qua đi cất vó gặp ma nên hết cả ống thính to tướng, chả được con tôm nào. Chúng tao ra mang vó về cho, thấy giỏ vẫn khô roong, đến cái râu tôm cũng chả có!”.

Tôi ngẩn người. Rõ ràng là tôi còn nhìn thấy cả họ hàng hang hốc nhà tôm chúng nó xôn xao rủ nhau bơi vào vó của chúng tôi như trẩy hội xuân cơ mà. Bàn tay tôi vẫn còn nguyên cảm giác nhoi nhói khi những đầu con tôm nhọn hoắt đâm vào, những cái càng của chúng cắp vào da kia mà. Và tôi nhớ...

Tôi đi vào nhà bác Hà.

Chị Dịu đang ngồi ngẩn ngơ bên thềm nhà. Thấy tôi đi vào cổng, chị chả nói gì, đứng dậy bước vội vào buồng khép chặt cửa. Tôi đứng trơ vơ ngọng nghịu ngoài sân một mình rồi bỏ về. Tôi đạp xe xuống trường cấp ba học. Tôi chỉ còn vài tháng nữa là thi. Tôi phải quên ngay những con tôm, con cua, con cá ngoài đồng. Tôi cố quên cả cái đêm cất vó trong ánh lửa ma trơi để chuyên chỉ học hành. Tôi xin bố mẹ cho trọ học ngay cạnh trường để khỏi mất công đi lại. Tôi đóng cửa trong nhà ngồi cả ngày cả đêm với bài vở. Thi xong tôi về làng. Thì chị Dịu đã đi bộ đội từ lúc nào. Năm ấy là mùa hè 1978.

Rồi nổ ra vụ tháng 2 năm 1979.

Chị Dịu không bao giờ trở về nữa. Nghe nói chị hy sinh ở cầu Khánh Khê. Sau này tôi cũng có mấy năm làm lính trên vùng biên phía Bắc. Tôi đã tìm đến cầu Khánh Khê. Ngồi bên bờ sông Kỳ Cùng nhìn dòng nước xanh ngăn ngắt chảy xuôi, tôi nhớ da diết cái đêm cuối cùng đi cất vó tôm với chị.

Khi tôi hiểu được là trong cái đêm xuân lạ lùng ấy, chúng tôi đã trao cho nhau những thanh khiết của tuổi xanh thì đã là âm dương cách biệt. Tôi cầm bó hoa dại vừa hái trên đồi, lội ra giữa dòng thả xuống. Nước mắt tôi tràn ra rơi thánh thót. Tôi cúi xuống hai tay vốc nước phả vào mặt. Tôi úp hẳn mặt vào nước sông. Tôi mở mắt trừng trừng nhìn vào dòng nước. Bỗng nhiên, tôi thấy muôn ngàn ánh lửa xanh đỏ trắng xóa rực rỡ dưới lòng sông. Y như ánh lửa đêm ma trơi năm nào của tôi và chị...

Truyện ngắn của Trần Thanh Cảnh
.
.