Bãi Thè Lè

Thứ Năm, 09/11/2017, 16:04
Làng Khấm bận làm ăn, có tiền lại bận đi du ngoạn, thời gian đến đình làng ít dần. Rồi thì đằng đông làng Khấm, người ta xây cái chùa to hơn quả núi, đi cả ngày mới hết, bà con nô nức kéo nhau lên đó vãn cảnh nên thời gian về cửa thánh cũng bớt đi… Ông Dứm tự biện minh cho người làng Khấm như thế khi số người nhờ ông viết sớ lễ thành hoàng ít dần...

Đang lúc bí, người làng Khấm đột nhiên nghĩ đến bãi Thè Lè.

Bãi Thè Lè là do người đi thuyền đặt cho cồn đất men theo dòng nước sông Khê, có hình lưỡi chó thè lè giữa trời hè. Bãi ở phía bên kia sông. Bên này sông là đình làng Khấm, cổng đình có đôi sư tử đá nhe nanh trợn mắt. Đình làng ngoảnh mặt nhìn ra sông, nhìn sang bãi Thè Lè. Bao quanh đình là nước sông Khê, bao gần tròn, chừa lại một đoạn đủ làm cổng cho người làng ra vào hương khói. Cổng ở bên phải đình, nhìn về thượng nguồn sông Khê.

Đình làng Khấm bé xíu nếu so với hai cây đa cổ thụ. Mỗi cây to gần hai người ôm, cao gấp năm bảy lần ngôi đình. Tán hai cây đan vào nhau, quanh năm xanh mướt. Đứng trên cao nhìn xuống, tán đa giống lá sen nổi trên mặt nước, che khuất mái đình.

Đình Khấm xây lâu lắm rồi, mái ngói đã phủ kín rêu nhung. Rêu đủ ẩm cho hạt đa nảy mầm, thi thoảng, ông Dứm bắc thang lên bứng xuống, trồng ra mép nước quây quanh đình, đình nào xin giống, ông cho.

Ông Dứm thọt chân từ hồi vào Nam đánh giặc. Về làng không đi cày cấy được, lại biết chữ Nho nên ra đình ngồi viết sớ thuê. Khi thủ nhang đình Khấm qua đời, người làng bầu ông thay thế, đến giờ cũng bốn chục năm có lẻ.

Đình Khấm thờ nữ thành hoàng. Chuyện về bà có cả trăm dị bản, nhưng ông Dứm hay kể nhiều nhất là chuyện bà trồng dâu khắp hai bờ sông để nuôi tằm, xe tơ, dệt lụa. Năm nọ có vị vua dong thuyền đi đánh giặc, chưa ra đến cửa bể đã gặp bão, rách hết dây nhợ buồm thuyền, lúc đi ngang bến sông Khê, bà mang tất cả tơ lụa dâng vua, còn gọi thợ khéo trong làng ra giúp sức, may buồm buộc cột, chẳng mấy chốc vua có thể giăng buồm vượt gió ra khơi. 

Thắng giặc trở về, nhà vua ban thưởng cho bà, phần thưởng chưa đến nơi thì lũ quét qua làng Khấm. Lũ về đột ngột giữa đêm, bà leo lên ngọn đa gào thét gọi dân làng dậy chạy lũ. Tiếng thét lẫn với tiếng sấm ì ùng khiến dân làng hớt hải bỏ chạy. Đứng trên cây gào gọi nên bà không biết trên trời mưa gió kéo đến ầm ầm, vặt gẫy cành đa bà đang trèo, quăng bà xuống nước. Bao nhiêu cành cây gẫy từ đâu dồn xuống táp vào hõm sông, bọc kín quanh bà như cái kén, giữ bà lại trong hõm sông làng Khấm. 

Người làng Khấm lập miếu thờ bà ngay chỗ bà tử nạn. Từ dạo ấy, thuyền bè qua lại, ai cũng dừng chân thắp cho bà nén nhang. Cũng từ khi lập miếu, thuyền buôn đi ngược về xuôi buôn may bán đắt. Làng Khấm phất lên như diều gặp gió. Có thời kỳ, làng đỗ tới mười tám ông nghè chỉ sau hai khoa thi. Tiếng tăm ngôi miếu thiêng vang xa, khách thập phương nô nức kéo về. Vài trăm năm sau, có vị vua kinh lý ngang qua, nghe chuyện, phong bà là thành hoàng làng, cho mở mang xây dựng đình Khấm để phụng thờ. Đình làm trong một trăm ngày, do các thầy địa lý, phong thuỷ, thợ nề, thợ mộc cao tay nhất nước tập trung đo vẽ, xây dựng. 

Đình Khấm được xây theo mẫu các ngôi đình trong kinh thành, giữ nguyên hai cây đa cổ thụ làm cột chống trời, tụ khí, giữ yên khúc sông giao thông huyết mạch quốc gia.

Cổng đình đủ lút đầu người cao nhất làng. Trên trụ cổng là hai bông lửa, nhiều người gọi là nụ sen, nhưng ông Dứm thích gọi là bông lửa. Ông Dứm quét lá, quét quả đa rụng mỗi ngày hai lần nên sân vườn sạch bong, vài ngọn cỏ gấu trồi lên giữa khe gạch lát nghiêng.

Năm tháng trôi đi, đình làng vẫn thế, cây đa vẫn vậy, bãi Thè Lè mỗi năm được sông Khê bồi thêm ít phù sa, dài rộng thêm vài tấc đất, làng Khấm thì chuyển mình rầm rập, nhà lầu mọc lên như nấm, xe hơi chạy ríu ran đêm ngày.

Người làng Khấm ở nhà lầu, xe hơi mà để thành hoàng ở căn nhà cũ mom sông thì lòng dạ không yên. Họ bàn nhau lấp khúc sông cụt, mở rộng khuôn viên, xây nhà cao cửa rộng để đức thành hoàng ngự cho xứng tầm. Khổ nỗi, bao nhiêu lần ông Dứm viết sớ, dâng lễ xin được mở đất, xây lại đình làng thì bấy nhiêu lần ông bị cấm khẩu tại chỗ. Người ta chê ông không biết cúng, mời thầy cúng cao tay nhất nước về dâng lễ, lại sắm sửa lễ vật đầy sân đình, thầy đọc hết bài cúng dài dằng dặc, đến mục khấn xin đào bới tu sửa thì cũng cấm khẩu luôn. 

Đành vậy, Ngài không cho xây lại nhà thì họ sửa sang bên ngoài, “ít ra người Tây người Tàu có đến, cũng không khinh làng mình nghèo hèn không lo được cho thành hoàng cái chỗ khang trang hoành tráng”. Họ đặt một đôi rồng vếch đuôi vào đình, lao mình xuống sân theo bậc lên xuống trước tiền đường, lại một đôi vếch đuôi lên giời, lao mình xuống sông ở bến đá. Sân đình lát gạch nghiêng, hai ông hổ ngồi chầu hẫu hai bên. Người ra vào đình làng Khấm ngày càng tấp nập, lễ vật, tiền dâng cúng càng lúc càng nhiều, ông Dứm xin ý kiến làng rồi thuê người mở rộng sân vườn, kè bờ sông bằng đá lục giác thủng, chỗ thủng ấy ông trồng hoa bân bấn, bụi tím bụi trắng xen kẽ nhau, nở hoa quanh năm.

Minh họa: Lê Tiến Vượng.

Anh cai Bơn đi làm ăn xa, thành đạt nhất làng, tết năm ấy về quê, ra đình lễ thánh, ngỏ ý muốn dâng tiến đôi sư tử đá đặt trước cổng “cho bề thế oai vệ, tăng cái sự linh thiêng thần bí của đình làng mình lên”, anh chốt lại như vậy sau một hồi phân tích với ông Dứm. Ông Dứm chưa kịp xin ý kiến làng thì anh Bơn đã rước hai “ông” sư tử về, sư tử phủ vải đỏ, thắt nơ vàng, ngự trên thùng xe tải, đi theo sau là một xe cần cẩu cũng thắt ruy băng vàng đỏ rực rỡ. 

Ông Dứm làm lễ cúng thánh xong thì cần cẩu nâng bổng ông sư tử lên rồi trịnh trọng đặt xuống, mỗi ông ngự một bên cổng. Cả làng quây xung quanh chứng kiến. Làm lễ nhập trạch xong, cụ trưởng làng đứng lên gỡ tấm vải đỏ ra, cắt nhỏ chia cho mỗi người một miếng lấy may. Hai ông sư tử ngồi chễm chệ, đỉnh đầu cao chạm bông hoa lửa, nanh nhe, mắt trợn, bờm tung gió, cơ bắp cuồn cuộn, móng vuốt nhọn hoắt, “chỉ nhìn thôi đã thấy uy lực thâm sâu huyền bí của núi rừng, ấy là chưa kể, đây là hai ông sư tử to nhất nước, không thua kém gì sư tử ở đền A đền Z bên nước X nước Y... 

Khách khứa thập phương có đến cũng phải ngưỡng mộ cái sự hoành tráng của làng Khấm, nhất định không thua kém bố con thằng nào”, anh cai Bơn tuyên bố như vậy khi hai ông sư tử đã yên vị. Bố mẹ anh em nhà cai Bơn từ đó cũng đua nhau bình phẩm tôn vinh cái uy lực hừng hực của ông sư tử, rồi bình luận tài năng của ông thợ đá, “đã biết biến cái thứ cứng rắn nhất trên đời thành những sợi lông bờm mềm mượt của linh thú... nó như một tác phẩm điêu khắc làm cho đình làng trở nên hoành tráng và thâm sâu”. 

Một vài người thì thầm với nhau khẽ bảo “Trông dữ tợn nhề”, “Nhìn gơm gớm là”, người lại bảo “Thì ở nơi thờ thần thánh, phải làm cho người ta thấy sợ chứ”. Một anh sinh viên mới về nghỉ tết đế vào: “Thánh thiêng rồi cần gì phải có vật trợ thiêng”… cứ thế, những tiếng thì thầm chỉ những người gần nhau biết với nhau, còn tiếng bình phẩm của anh cai Bơn và đám người nhà thì cứ oang oang, thi thoảng lại viện dẫn thêm vài câu nói trích ra từ những công trình nghiên cứu đình đám của chuyên gia này, giáo sự nọ về văn hoá thờ cúng, về nghệ thuật điêu khắc đá... vân vân và vân vân… Đám đông cuốn theo những lời có cánh của cai Bơn, truyền miệng nhau, chẳng mấy chốc mỗi người trong đám đông ấy trở thành chuyên gia thờ cúng và nhà bình luận nghệ thuật bậc thầy.

Làng Khấm bận làm ăn, có tiền lại bận đi du ngoạn, thời gian đến đình làng ít dần. Rồi thì đằng đông làng Khấm, người ta xây cái chùa to hơn quả núi, đi cả ngày mới hết, bà con nô nức kéo nhau lên đó vãn cảnh nên thời gian về cửa thánh cũng bớt đi… Ông Dứm tự biện minh cho người làng Khấm như thế khi số người nhờ ông viết sớ lễ thành hoàng ít dần.

Một ngày đẹp trời, anh cán bộ văn hoá xã đến thăm, bảo ông Dứm bàn với người làng xem nên để hay nên dỡ ông sư tử đá kia đi, “dạo này báo chí họ nói nhiều quá, sư tử không phải linh vật của nước mình, người ta rước ở đâu về thờ rồi thành mốt vậy chứ ngày xưa cha ông mình có dùng nó để thờ đâu. Mấy con linh vật các cụ nhà ta bày, trông cái mặt nó tươi sáng hiền hoà chứ không dữ tợn vầy, mà giả như có con nào trông cái mặt dữ dữ tí là xung quanh thế nào các cụ cũng trang trí thêm các loại hoa, người xấu bụng chỉ nhìn cái mặt là sợ, còn người tử tế dám nhìn thẳng nhìn lâu thì sẽ lại thấy nó gần gụi ông ạ”, vừa nói anh ta vừa đưa cho ông Dứm một con chó đá bé bằng quyển sách. Con chó đá kiểu này ông vẫn thấy nó ngồi chồm hỗm trước ngôi đền cổ trong kinh thành. Hôm cai Bơn ngỏ ý dâng đồ cúng vào đình, ông Dứm có nhắc đến chó đá, nhưng anh ấy bảo chó không oách bằng sư tử nên ông không ý kiến gì thêm nữa.

Ông hay nghe đài nên cũng biết sư tử đá là thứ nhập cư, nhập cư cũng không hề gì, nhưng ông không ưa nó vì trông nó dữ dằn cục mịch, nó lại là loài ăn thịt, là thú dữ... nó không hợp với ông, với người dân hiền hoà ven sông Khê. 

Ông nghĩ như vậy từ lúc nó ngự ở cổng đình, nhưng vì nể anh cai Bơn mà không dám nói. Giờ có tiếng của anh cán bộ xã, ông mới lân la hỏi ý kiến làng, hỏi cả con cháu của làng đang làm ăn xa. Cậu sinh viên hồi nào đứng xem cẩu sư tử về đình, giờ đã làm gì đó trên tỉnh, nghe điện thoại của ông xong thì bảo: “Con thấy nó không hợp từ hôm các cụ đưa về, nhưng mà lúc ấy con còn trẻ ranh, nói ra sợ các cụ lại mắng cho thì chết. Giờ thì con xung phong chịu phần chi phí dỡ nó đi, cụ cứ bàn với làng rồi báo lại con nhé, hôm nào dỡ nhất định con sẽ về”. 

Một vài chị phụ nữ trong làng cũng bàn tán rồi rỉ tai nhau nhanh hơn điện cao tần, nhất là khi thông tin rò rỉ ở dạng không chính thức, các chị đã chê là gần như cả làng Khấm chê. Anh em nhà cai Bơn đánh tiếng rằng thì anh Bơn rước sư tử về làm đẹp cho làng, làm linh cho đình, làng không biết ơn nghĩa mà lại đòi dỡ đi, vậy nên anh Bơn, đại gia lớn nhất làng Khấm bị mất lộc. Anh ấy mất lộc thì lấy ai kè sông cho làng, lấy ai xây nhà văn hóa rồi sân bóng rồi tổ chức hội hè đình đám cho làng...

Ông Dứm tung cái ý chê sư tử ra chán chê thì có cán bộ về làng Khấm nói chuyện, phân tích có lí có tình nên làng Khấm muốn nhanh nhanh chóng chóng khiêng sư tử đá đi, “kẻo rồi nó làm hại cái long mạch của làng”, “kẻo rồi nó đuổi hết khách đến đình làng, thánh không có người đến thăm thì thánh chán thánh bỏ đi thì đình để làm gì”… người làng nói thế, còn ông Dứm lại lo bê hai con sư tử đá ấy đi đâu khi không ai muốn nó ở gần nhà. 

- Cho nó ra bãi tha ma.

- Cho ra đấy để dọa hồn ma người làng à, vậy thì còn ai dám đi qua nó mà về thăm con em cháu chắt họ hàng...

- Hay đưa ra công viên cho trẻ con nó chơi?

- Ối giời, có mà để doạ ấy, ông định đuổi hết trẻ con khỏi công viên à?

- Hay là xin thành phố miếng đất mà vứt?

- Đất làng mình chả còn bao nhiêu, người sống còn thiếu chỗ lấy đâu ra chỗ cho cái thứ ngoại lai ấy.

- Tôi thấy giờ khắp nơi hô hào dỡ bỏ sư tử đá, mình mà có đám đất cho hai con này ngồi, khéo vô số sư tử ở nơi khác kéo về thành làng sư tử thì hay nhể. Công bằng mà nói, người ta đục đẽo nó cũng đẹp đấy chứ... Mình không thích thì bỏ thôi chứ...

- Chứ chứ cái gì... ông đừng có nói là giao lưu văn hóa mà cứ câu nệ vậy thì tiếp thu với tiếp biến làm sao nhá. Tôi biết thừa, ông giao lưu ở đâu thì giao lưu chứ để thú hoang ở đình làng là không chấp nhận được.

- Ô cái ông này...

- Đừng có cãi nhau, ta đang bàn cơ mà. Kể ra, mình mà xây được cái bãi tha ma, cứ tạm gọi vậy đi, cho đám sư tử thất thế kia thì cũng hay đấy, vừa để tưởng niệm những tháng ngày nhầm lẫn văn hoá, vừa để có cái cho làng làm du lịch, dân tình bây giờ hám cái lạ lắm... Làng mình thì ngoài cái đình thiêng ra, chả có cái gì quý...

- Này này, chỉ cần giữ được cái thiêng ấy là đủ, chả cần nhiều...

- Tôi thì thấy làm cái bãi tập kết sư tử ở đâu khéo chỗ ấy loạn lên ấy. Có hai con mà làng mình vỡ cả long mạch, một cái bãi tha ma vài trăm hay vài ngàn con có mà làng này đắm sông à...

- Đắm làng... Á... Hay là cho nó ra bãi Thè Lè, bãi ấy mà đắm thì sông Khê đẹp lên bao nhiêu...

- Ở nhỉ, cái bãi Thè Lè... bãi ấy mà rồi có xây thành bãi tha ma thả cả đống sư tử đá vào đấy cũng được ấy nhỉ... lấy độc trị độc... biết đâu lại có cái bãi tha ma làm điểm du lịch ngang ngửa với bãi tha ma của người Ai Cập cổ đại...

- Thế mà không nghĩ ra sớm, đỡ cãi nhau...

- Cãi mới ra chuyện... nhưng mà... ai bê nó ra bãi bây giờ...

Câu hỏi khiến cả đám đông đang sôi nổi bàn tính chợt im bặt. Họ nhớ lại những câu chuyện gần xa xảy ra ở bãi Thè Lè...

Bãi Thè Lè rộng hơn khu phố lớn nhất trong nội thành. Ngắm bãi Thè Lè, người ta đã tính chuyện xây dựng khu phố hiện đại ven sông với các tòa biệt thự, nhà vườn lãng mạn. Hôm thành phố tổ chức báo cáo thiết kế quy hoạch, anh kiến trúc sư lên trình bày ý tưởng, cứ nói xong câu “Kính thưa các đồng chí” là hai hàm răng dính chặt lại. Bốn lần như thế, cuối cùng cả hội nghị đành tự xem trên bản vẽ và tự đọc, tự hiểu theo khả năng của mỗi người. Sau hội nghị, cuộc đua chia lô bán nền diễn ra ầm ĩ như sóng sông Khê táp dưới rễ lau sậy ở bãi Thè Lè. Lúc máy móc đến làm mặt bằng để chia lô, bán đất, vừa lăn bánh vào bãi đã bị thụt bánh xuống bùn, lún lút đầu anh lái máy. 

Người ta bắt đầu lục lại những câu chuyện hay dọa trẻ con ra kể, kiểu như có anh lái thuyền ngang qua bãi Thè Lè, thấy gió mát trăng thanh, lau sậy um tùm nên đứng trên mạn thuyền mà xả vòi rồng xuống sông, vòi rồng mới xả được non nửa bọng nước thì chủ nhân lăn đùng ngã ngửa ra thuyền, cái vòi rồng cứ ngỏng tướng lên mà rung bần bật như bạch đàn gặp bão, bao nhiêu nước còn lại cứ thế mà văng khắp mặt mũi chân tay anh chàng. Thuyền thì cứ trôi, người thì cứ nằm ngỏng cần câu ngoắc trăng. 

Gần sáng, có người nhìn thấy thì anh chàng đã cứng đơ rồi. Lại nữa, một chị chán sông nước, tính lên bờ ăn ở cho đỡ lênh đênh, cắt lau cắt sậy phơi khô lợp nhà, mang tre luồng về dựng căn lều tạm, mua vài thứ lặt vặt về buôn bán cho dân thuyền chài, khách qua khách lại đông dần, cánh đàn ông xa nhà ngang qua, mắt la mày liếc, nay cho đồng quà, mai cho tấm bánh, buông lời lả lơi, chị chiều lòng khách, khách ngã ngựa tắt thở ngay trên bụng chị, chị hãi quá bỏ chạy ra đến mép nước cũng tắt thở. 

Lại một dạo có anh kỹ sư con nhà giàu nhìn bãi Thè Lè, nảy ý tưởng mới, xin bố cấp vốn xây dựng khu ăn chơi bài bản, có bè cá dưới sông, gà lợn trên bờ, nhà hàng ăn uống chìa ra mặt nước, men theo đường cong của bãi Thè Lè, giữa bãi sẽ là những căn biệt thự nhỏ xinh phủ đầy dây leo và hoa đủ các màu sắc để người ta có chỗ ăn chơi thức ngủ... Hôm khởi công xây dựng cũng là ngày bố anh ta qua đời. Bố anh ta đi, các chủ nợ xé toang gia sản nhà anh như xé mảnh vải che đầu sư tử hôm rước về đình Khấm. Từ đấy, không ai bén mảng đến bãi Thè Lè nữa.

Ông Dứm thấy cái sự im lặng của cuộc sinh hoạt làng nó kéo dài và sâu đến nỗi, tiếng thở cũng phải nén, ông chợt nghĩ đến anh sinh viên ngày xưa, thế là bấm điện thoại:

- Này anh, làng định đưa đôi sư tử đá ra bãi Thè Lè, ý anh sao?

- Con ủng hộ các cụ! Gì chứ đưa được đôi sư tử ấy ra khỏi đình làng thì quá tốt. Đình làng mình như quả tim ấy, nhỏ nhắn xinh đẹp, hai con sư tử dữ tợn chắn lối vào, khác nào đút nút cái ống dẫn máu về tim, đã thế, hai con ấy lại là giống ngoại lai, làm mất hết dấu vết riêng của làng mình. Các cụ bàn tính đi nhé, con góp toàn bộ phần công thợ vận chuyển đi.

- Anh ạ! Vấn đề là không ai dám động tay khiêng nó đi.

Im lặng khá lâu. Ông Dứm cũng thấy xót tiền điện thoại cho cái quãng im lặng hoang hoải này. Mãi rồi tiếng anh ấy cũng vang lên.

- Cụ để con tính đã nhé, con tìm cách liên lạc xem có ai người ta giúp không rồi con báo lại cụ sau nhé!

- Vâng, vậy anh xem xem rồi báo cho tôi sơm sớm tí nhá.

- Dạ vâng cụ!

- À mà tôi bảo này, anh tính được lúc nào thì lúc ấy làng mới dời đi được đấy nhé, coi như cái sự bứng ông sư tử này, làng trông cả vào anh đấy!

Ông Dứm nói được cái câu ấy ra mà lòng dạ hân hoan như vừa ngỏ được lời tỏ tình với cô Diên đẹp nhất làng mà ông phải lòng từ trước khi đi bộ đội. Ông định bụng lúc đi bộ đội về sẽ ngỏ lời nhưng ông lại què, cũng may mà què có một chân vì quả lựu đạn không phát nổ, cái quả lựu đạn bọn giặc ném vào chỗ ông nằm, nó giật chốt làm sao mà không nổ được. Ông thấy nó đẹp nên nhặt về giấu nhẹm đi, đẹp thế mà đi giết người... ông giấu nó qua mấy lần cưa chân thật lắp chân giả rồi mang được về làng mà không ai phát hiện ra... thì làm gì mà không giấu được cái tình yêu ông dành cho cô Diên để cô ấy hồn nhiên già đi với chồng con cô ấy.... Ông triệt tiêu khả năng nói những lời có cánh cũng từ đấy... vậy mà bây giờ lại nói ra được.

Ông vui vẻ bảo với người làng rằng ông đã nhờ được người lo rồi, “thống nhất là chuyển nó sang bãi Thè Lè nhá, tôi tính thế nào thì làng cố gắng ủng hộ tôi nhá”. Ông nói xong cái câu ấy thì trong đầu mới nảy ra cái ý nghĩ rằng biết đâu anh sinh viên kia không nhờ được ai thì sao, giờ anh ấy làm quan tỉnh rồi, cái chuyện hứa nước đôi rồi lui thời gian như thế ông thấy quen quen... mà lời ông nói trong cuộc họp làng thì không thể nói chơi... tám chục tuổi giời rồi ai còn nói chơi... Mà... ờ nhỉ... tám chục tuổi giời rồi, vợ con thì chẳng có, xuống đất cũng được rồi, vậy thì còn sợ cái gì... Ngày xưa đã hy sinh hụt, giờ hy sinh nốt cái phần còn lại thì cũng có làm sao. Nghĩ đến đấy ông thấy hân hoan trong dạ.

Cuộc họp làng kết thúc, trong lòng ai cũng thấy có tí hoang mang, liệu cái sự ủng hộ mà ông Dứm đề nghị kia là ủng hộ công hay của, ủng hộ của thì được chứ công thì ...

Nhưng làng Khấm không phải lo lâu.

Ông Dứm về đến cổng đình, đã thấy thằng cu Tĩm hì hụi lôi được một con sư tử xuống thuyền rồi. Thằng Tĩm phải đến bốn chục tuổi, vậy mà cả làng gọi nó là thằng cu, chỉ vì nó lớn xác nhưng không lớn đầu. Nó bị nhiễm chất độc da cam, suốt ngày nhớt dãi thều lều đi nghênh ngang ngoài đường, vác mặt lên cười hô hố.

Ông Dứm dụi mắt xem có nhìn nhầm không đã thấy nó gọi: 

- Dứm ơi, hộ tí...

Hóa ra nó kiếm được cái bệ sắt có bánh xe của nhà Hỉu bán vật liệu xây dựng rồi hì hụi thòng dây thừng lên cành đa, một đầu buộc vào cổ con sư tử, đầu kia buộc vào con trâu mộng rồi lùa cho trâu chạy, nó bảo ông đẩy cái bệ sắt vào đít con sư tử giúp cho nó... “Thằng dở người này khôn phết” - Ông nói nhưng Tĩm không nghe thấy.

Hai ông cháu lôi sư tử đá xuống, chống thuyền bỏ sang bãi Thè Lè.

Xong xuôi, hai ông cháu chèo thuyền quay lại bến đá đình Khấm, nước sông trong vắt, gió mát rười rượi, thằng Tĩm dang tay cười khành khạch, nghêu ngao hát, múa, xoay tròn người trên thuyền. Đột nhiên nó rú lên rồi lăng tay quăng gì đó lên bãi Thè Lè, vừa quăng vừa gọi:

- Dứm ơi... xem này...

Bùm! Ông Dứm giật mình ngoái đầu nhìn lại. Tiếng nổ của quả lựu đạn để lâu ngày kêu không lớn, chỉ đủ làm sình lầy bung ra rồi sụp xuống khiến đôi sư tử đổ kềnh, hai cái đầu đập vào nhau, văng khỏi cổ, vỡ thành nhiều mảnh to nhỏ lẫn vào bùn đất lau sậy trên bãi Thè Lè. Thằng Tĩm chỉ vào góc đình, nơi ông hay ngồi viết sớ trên cái hòm sắt tây, cười  hềnh hệch bảo:

- Lựu đạn Dứm xịt.

Hai ông cháu nhìn nhau cười sằng sặc.

Từ hôm ấy, thi thoảng ông Dứm lại thấy vài cái thuyền lạ chở sư tử đến, đổ lên bãi Thè Lè rồi đi, con sau đè con trước, vỡ đầu, gẫy cẳng.

Không thấy người làng đồn có ai đó bị làm sao khi ném sư tử vào bãi Thè Lè. Ông Dứm vẫn đủ sức leo thang lên mái đình phủ rêu nhung, bứng đa con trồng ươm ngoài mé sông để ai xin giống thì cho. Và cu Tĩm vẫn hồn nhiên ngửa cổ lên trời cười như thế.
Truyện ngắn của Vũ Thanh Lịch
.
.