Tre xanh, xanh tự bao giờ...

Thứ Ba, 22/05/2012, 08:00
Nhân đọc bài "Tre Việt Nam" của nhà thơ Nguyễn Duy.

Tre xanh
xanh tự bao giờ
chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh? 

Thân gày guộc, lá mong manh
mà sao nên lũy nên thành tre ơi?
ở đâu tre cũng xanh tươi
cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu? 

Có gì đâu, có gì đâu
mỡ màu ít chắt dồn lâu hóa nhiều
rễ siêng không ngại đất nghèo
tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù 

Vươn mình trong gió tre đu
cây kham khổ vẫn hát ru lá cành
yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
tre xanh không đứng khuất mình bóng râm 

Bão bùng thân bọc lấy thân
tay ôm tay níu tre gần nhau thêm
thương nhau tre không ở riêng
lũy thành từ đó mà nên hỡi người
chẳng may thân gãy cành rơi
vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng
nòi tre đâu chịu mọc cong
chưa lên đã nhọn như chông lạ thường 

Lưng trần phơi nắng phơi sương
có manh áo cộc tre nhường cho con
măng non là búp măng non
đã mang dáng thẳng thân tròn của tre
năm qua đi tháng qua đi
tre già măng mọc có gì lạ đâu
Mai sau
mai sau
mai sau
đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh 

Từ lâu, cây tre đã trở thành một trong những biểu tượng cực kỳ đẹp đẽ về sức sống và phẩm cách con người Việt Nam chúng ta.

Thêm một lần nhà thơ Nguyễn Duy khẳng định điều này bằng những hình ảnh giàu sức khái quát và bằng cách nói dí dỏm, hợp với sự tiếp nhận của cả các bạn đọc nhỏ tuổi. Qua bài thơ, tre Việt Nam đã hiện lên với tất cả những đặc tính của dân tộc Việt Nam: cần cù, lạc quan, đùm bọc thương yêu và kiên cường bất khuất. Từng bước, từng bước tác giả đã chứng minh cho chúng ta hay điều đó.

Kể cũng lạ: Thuộc vào loại thân gày lá mỏng, vậy mà sức chịu đựng của tre thật kỳ diệu! Tre có thể mọc ở bất kỳ đâu trong điều kiện đất đai cằn cỗi như thế nào mà vẫn tươi xanh lạ thường! Tác giả đã lý giải khả năng tồn tại này hoàn toàn phụ thuộc vào sự siêng năng của bộ rễ:

Rễ siêng không ngại đất nghèo
tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù

Thực tế từng cho thấy: thế giới có một số nước không được ưu đãi về tài nguyên khoáng sản, lại luôn chịu hiểm họa của động đất, núi lửa, vậy mà, bằng cách này cách khác, họ đã vươn lên, trở thành nước có đời sống cao và có nền công nghiệp tiên tiến. Rõ ràng, biết khắc phục hoàn cảnh là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển. Mà cách khắc phục trước nhất vẫn là sự cần cù chăm chỉ…

Tre Việt Nam không những "cần cù" mà còn biết nén chịu tủi cực riêng mình với một ý hướng giáo dục "con cháu" khá rõ rệt. Thân cây có thể nghiến kèn kẹt một cách chịu đựng để lá cành phấp phới trong luồng gió. "Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành" mà. Không những thế, tre lại còn rất biết đoàn kết với nhau. Cứ quan sát từ một khóm tre, hẳn các bạn đọc nhỏ tuổi của chúng ta sẽ nhận ra hiện tượng "thân bọc lấy thân", "tay ôm tay níu" của tre, cành tre là một sự thực dễ thấy. Và cũng chính vì thế mà họ hàng nhà tre có thể kết hợp nên thành nên lũy, là trường hợp duy nhất trong các loài cây được con người gọi kèm chữ "lũy": Lũy tre.

Tuy nhiên, sự đời có gì bền vững mãi: Tre già thì măng mọc. Điều quý nhất là tre đã kịp để lại “cái gốc” cho con cháu noi theo. Mà sự quan tâm săn sóc của tre đối với lớp măng non cũng cảm động làm sao "lưng trần phơi nắng phơi sương/ có manh áo cộc tre nhường cho con". Bạn đọc đã khi nào nhìn thấy những lớp vỏ bao quanh búp măng non kia chưa? Nhà thơ Nguyễn Duy đã xem như chiếc áo cộc của măng tre đấy. Thật là một cách nhìn độc đáo. "Măng non là búp măng non", vậy mà ngay từ khi ấy, nó "đã mang dáng thẳng thân tròn của tre", đã tiếp thu được truyền trống bất khuất của ông cha, cái "nòi" không chịu mọc cong bao giờ!

Vậy nên "năm qua đi tháng qua đi", họ nhà tre cứ thế mà truyền nối nhau, đời đời kiếp kiếp - những đức tính quý báu nhất để duy trì nòi giống. "Ngày xưa đã có bờ tre xanh". Hôm nay, rồi cả mai sau "đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh". Phải chăng đó là một huyền thoại mà nhà thơ Nguyễn Duy đang kể với chúng ta. Huyền thoại về cây tre Việt Nam và cũng là huyền thoại về sức sống của con người Việt Nam từ ngày xửa ngày xưa cho đến hôm nay và mãi mãi về sau

Nguyễn Mạnh Nhiên
.
.